Monday, August 26, 2019

VAI TRÒ CỦA THỂ LOẠI ĐỐI VỚI CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC



A VĂN HỌC DÂN GIAN :   Với hai bộ phận ( văn vần và văn xuôi), nội dung của từng tác phẩm   được nhân dân lao động hình thành có sự phân biệt thể loại rất rõ ràng .
-Sử thi dân gian (anh hùng ca ) : bản thân khái niệm “ sử thi” đã cho thấy hai yếu tố:  hình thức  văn vần trong  lối  diễn xướng (thi ), nhân vật chính   là người  anh hùng gắn liền với chiến công trọng đại của dân tộc(sử )  . Ngôn ngữ của sử thi mang  không khí  hào hùng .        
 - Thần thoại :  có nghĩa là “ kể về các vị thần” .  Khái niệm “ thoại” cho thấy tính tự sự , dù là  lý giải các hiện tượng tự   nhiên (  sự hình thành của trái đất, hiện  tượng lũ lụt, nguồn gốc loài người… ) Nhân vật chính là thần .Đây cũng là thủ pháp nghệ thuật .
 -Truyền thuyết (truyền: trao cho, thuyết : nói rõ ra )Truyền thuyết có thể hiểu là “ nói lại với người khác”. Nói lại điều gì ?  Những sự kiện, nhân vật lịch sử có thật  .Nói  bằng cách nào ? Dùng các biến cố tưởng tượng mang tính kỳ ảo . Nói như thế để làm gì ? Để người dân bày tỏ tấm lòng của họ đối với các nhân vật lịch sự mà họ trân trọng, yêu mến hay cảm thương
-Cổ tích  (   dấu vết, di tích xưa cũ ) mang theo những  biến cố (tích )trong thời kỳ xã hội phân chia thành giai cấp (thời  cổ  xưa )có kẻ áp bức và người bị áp bức, kẻ nghèo, người giàu  .Các yếu tố kỳ ảo là lực lượng phù trợ, cũng được xem như những  thủ pháp nghệ  thuật , để  tác giả giải quyết những xung đột trong  nhiều  mối quan hệ xã hội, đặc biệt là những mối quan hệ riêng tư trong gia đình tư hữu của xã hội có giai cấp , có áp bức bóc lột và bất công ( dì ghẻ-con chồng, chủ-tớ, anh -em ).
  -Truyện cười dân gian : Khái niệm “ cười” mang hai nghĩa : giáo dục và giải trí .  Thủ pháp  nghệ thuật chính là phóng đại,chơi chữ, tương phản ( hay nói ngược ) Yếu tố kỳ ảo hoàn toàn không có.  Bản thân từ “ truyện” hàm ý là  sách  lưu giữ những bài học cho đời sau. Như vậy,  truyện cười  có vị trí rất  quan trọng trong giòng văn học dân gian .
- Ca dao hài : cũng là một dạng truyện cười nhưng không có cốt truyện, tình tiết, mà đi ngay vào trọng tâm vấn đề . Thủ pháp chính cũng  là phóng đại,chơi chữ, tương phản ( hay nói ngược ). Các câu lục bát là phương tiện để chuyển tải nội dung .
- Ca dao trữ tình  dân gian (lời ca,câu hát chất chứa nhiều cảm xúc ) Những câu thơ lục bát,có thể gọi là thơ dân gian  với nhiều hình ảnh mang giá trị ẩn dụ, so sánh , nhân hóa, mang theo những vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động  được  đánh giá là những viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam
-Tục ngữ dân gian : (tục : trần thế, cõi tục, đối lập với cõi tiên; ngữ: những câu nói)những câu nói ngắn gọn nhưng có  vần điệu, đối xứng, hình ảnh mang tính khái quát cao phổ biến, chuyển tải những triết ký, kinh nghiệm sống  trong  sinh hoạt   hằng ngày của nhân dân lao động
 B.  VĂN HỌC VIẾT :
1. Văn học trung đại :.Bằng hai ngôn ngữ , chữ Hán và chữ   Nôm,  cha ông đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm văn học  có giá trị về  hình thức nghệ thuật . Thể loại của  phần lớn  các tác phẩm được  đặt trang trọng cùng  với nhan đề   từng bài   (Hich tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo ) hay cả tập thơ  (Nguyễn Trãi có Quốc âm thi tập,Ức Trai thi tập ) Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân quốc ngữ). Thi có nghĩa là thể loại  thơ   .
  Văn học viết gắn liền với giai đoạn trung đại của lịch sử , nên còn được gọi là  Văn học trung đại .  Trong nền văn học này, các tác giả  đã sử dụng phổ biến những thể loại  sau :
   - văn biền ngẫu có các thể :    Hịch, Cáo,Văn tế , Phú …
    - văn xuôi chữ Hán ( nghị luận ) có các thể:    Bia ký, Tựa , Chiếu…
 - văn xuôi trữ tình có tùy bút , phú
 - văn xuôi tự sự chữ Hán có ký sự , truyện truyền kỳ ,…  
-văn vần có Hát nói,  Khúc ngâm ,  thể song thất lục bát ( khóc Dương Khuê được xem như một bài thể văn tế chữ nôm, văn vần  )
 - văn tự sự chữ Nôm, thể  thơ lục bát có Truyện ( truyện Kiều của Nguyễn Du )
 Tùy theo mục đích truyền tải nội dung tư tưởng,  mỗi  thể loại có những  phương thức biểu đạt , thao tác lập luận hay  giọng  điệu ( lối hành văn )  khác nhau . Các thể loại như Hịch , Cáo , Văn tế, Chiếu  đều   có chung một thao tác lập luận , nhưng khác nhau về giọng văn : hùng hồn ( Cáo ) kêu  hô hào ( Hịch ) kêu gọi , ra lệnh ( Chiếu ) xót thương ( Văn tế )
       2. Văn học hiện đại : Khi dùng chữ quốc ngữ, tên  thể loại không còn đi kèm với nhan đề, có lẽ vì các tác giả thấy không cần   thiết . Tuy nhiên, vẫn có một số tác phẩm ,thể loại vẫn được đặt cùng với tên tác phẩm . Chẳng hạn  Truyện Tây Bắc ( Tô Hoài )Trường ca Mặt đường khát vọng  (Nguyễn Khoa Điềm )
    Về thơ chúng ta có rất nhiều thể thơ do ảnh hưởng từ các nền văn học nước ngoài ( thơ haiku của Nhật , thơ sonnet của Pháp,  thơ Đường của Trung Quốc  ) thơ mới với thơ bốn chữ, năm chữ, bảy chữ ,tám chữ,   thơ lục bát. Thể thơ Đường luật ít  được phổ biến  vì tính niêm luật quá chặt chẽ của nó .
 Thơ được  hình thành từ ngôn ngữ cô đọng, giàu hình ảnh và nhạc điệu, do đó dù nội dung mang tính tự sự ( Truyện  Kiều, Hầu trời ) nhưng chất thơ vẫn mang giá trị nghệ thuật chủ đạo
    Về  tự sự chúng ta có hai bộ phận nhỏ : dạng có hư cấu( truyện,tiểu thuyết ) và dạng không có hư cấu ( tản văn,tùy bút, nhật ký , ký sự ) Giá trị về thể loại của tự sự là  các phương thức biểu đạt ( kể chuyện, miêu tả , biểu cảm ) bằng ngôn ngữ của tác giả và ngôn ngữ  nhân vật
    Về kịch chúng ta có bi kịch, hài kịch,chính kịch  tiểu phẩm hài, kịch thơ ...

    Về nghị luận chúng ta có các thể chứng minh,giải thích, bình luận

  
A THỂ LOẠI NGHỊ LUẬN:
. 1 .Đặc điểm riêng  :  Văn nghị luận là thể  loại  được dùng để  biện minh một tư tưởng, quan điểm,  hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống, xã hội    cho  đông đảo quần chúng .Văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.
   2 .Tác phẩm : Nghị luận là  thể loại  xuất hiện cùng với những văn bản mang tính chính luận ( Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh )tính xã hội ( Đạo đức văn hóa Đông Tây của Phan Bội Châu ) hay một nhận định  về văn học ( Một thời đại của thi ca  của Hoài Thanh ) . Trong cuộc sống hiện tại, thể loại nghị luận ( giải thích, chứng minh, bình luận ) chiếm một vị trí  quan trọng. Đó là thái độ sống tích cực của một doanh nhân hiện đại (Doanh nhân là người học trò không bao giờ tốt nghiệp -Nguyễn Tuấn Quỳnh) trách nhiệm (Hiểu về trái tim- Minh Niệm) những chiêm niệm về một cuộc sống đơn gian (  Sống đơn giản - Chương Thâu ).
  3. Đặc điểm :Thể loại  nghị luận dựa vào tư duy lô-gich, vận dụng lý luận và thực tế để trình bày, bàn bạc ,lý giải một vấn đề nhằm thuyết phục người đọc nhận thức và hành động theo một quan điểm nhất định. Dựa vào nội dung, người ta thường chia văn nghị luận ra làm các  loại :nghị luận xã hội, nghị luận chính trị ( chính luận); nghị luận văn học.Kỹ năng lập luận tốt là cơ sở để vừa có thể trình bày những vấn đề không riêng lĩnh vực văn học,cuộc sống ,mà trên mọi khía cạnh khác, môi trường khác .Phong cách chung về ngữ của ba loại nghị luận là phong cách ngôn ngữ khoa học.Tuy nhiên, loại chính luận phần nhiều  nghiêng về phong cách ngôn ngữ chính luận .
. 4. Vận dụng : Xuân Diệu viết  Vội vàng bằng thể thơ mới, nhưng lối chọn câu tám chữ, cách gieo vần linh hoạt là dạng câu và vần của Hát nói. Về kết cấu, bài thơ nhìn chung có bố cục của một văn bản thuộc thể nghị luận giải thích : Tuổi trẻ và mùa xuân đều đẹp, thế nhưng tuổi trẻ ngắn ngủi lắm ( nêu vấn đề) Ngắn ngủi như thế nào ? Tại sao ( dùng thao tác  giải thích để giải quyết vấn đề  ) Vậy tuổi trẻ phải làm gì ? ( kết luận ). Nhưng  giá trị nghệ thuật  chính vẫn là chất thơ .
    Hoặc với các  bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú, nếu chúng ta dựa vào bố cục chung của một bài nghị luận, thì việc  đọc hiểu sẽ có kết quả rất tốt. Đó là dạng nghị luận đơn giản :  chứng minh ( nêu vấn đề , dùng thao tác  chứng minh  để giải quyết vấn đề , kết luận, tương đương với ba phần đề, thực luận và kết  ). Chúng ta có thể đưa bố cục này vào  khi đọc bài trích Tựa  Sách Trích Diễm Thi Tập của Hoàng Đức Lương, hay Bia ký đề danh tiến sĩ năm 1442  của Thân Nhân Trung
    Những  tác phẩm  thuộc giòng văn học trung đại khác như Cáo, Văn Tế, Chiếu lại có  kết cấu của các văn bản bình luận chính trị . Bài học sẽ đi qua năm bước: nêu vấn đề, mặt đúng, mặt sai,mặt dung hòa và kết thúc vấn đề .Mới thấy rằng người xưa rất có ý thức dùng thao tác bình luận trước những vấn đề  mang ý nghĩa chính trị sâu rộng, hẳn vậy nên các tác phẩm này có đất cho chủ nhân lật tới lật lui một vấn đề, dựa trên những cứ liệu lịch sử chắc chắn .

    Chúng ta có thể vận dụng  thao tác lập luận  chứng minh với  thể loại thuộc dạng văn bản ứng dụng: thuyết minh, và bình luận với dạng  phỏng vấn. Hai thể loại này cần sự hệ thống, sự lập luận chặt chẽ, ý tưởng mạch lạc.
  thể  loại nghị luận, học sinh  được đòi hỏi nhiều kỹ năng , gọi chung là các thao tác lập luận .Học sinh phải có kiến thức  về cách xây dựng  bốn loại đoạn ( diễn dịch, quy nạp, song hành,móc xích ) từ những hướng tư duy phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận, tổng hợp . Các văn bản nghị luận giá trị, tiêu biểu được chọn lọc  trong sách giáo khoa là cơ sở giúp học sinh nắm được mặt lý thuyết. Khâu tự đọc tác phẩm, nghiên cứu các văn bản phê pình tác phẩm,tự biên soạn thành những bài văn ngắn, rồi  quá trình thảo luận có sự vận dụng tích cực của lối tư duy logic, đi đến hình thành những bài Tập Làm  Văn lớn trong suốt hai học kỳ  … tất cả sẽ là cơ hội để học  sinh trau dồi, thể hiện, đánh giá khả năng nghị luận của mình
A.    THỂ LOẠI TỰ SỰ
 
1 Định nghĩa : Là một loại hình văn học, ở đây nội dung cụ thể của tác phẩm được trình bày qua quá trình phát triển của một hệ thống biến cố và sự tác  động qua lại của các tính cách , cùng với sự có mặt bằng cách này hay cách khác  của hình tượng người kể chuyện .
.Các thể loại ở một số  tác phẩm đôi khi cũng “ lấn sân” qua thể loại khác.
1 Vận dụng:  Có khi nhà thơ chọn lối văn tự sự để hình thành tác phẩm. Nguyễn Du dùng thể lục bát không phải giúp  nhân vật trữ tình giãi bày tâm trạng, mà là để chính tác giả   kể chuyện và từ đó hình thành một pho tiểu thuyết bằng thơ  đặc sắc bậc nhất của dân tộc, mang màu sắc bình dân lẫn bác học của vị đại thi hào này : Truyện Kiều . Đó là Nguyễn Khắc Hiếu khi viết bài thơ Hầu Trời,với hình thức là thể thơ thất ngôn trường thiên, nhưng lối kể chuyện, miêu tả cảnh vật, con người, và  lối bày tỏ cảm xúc, lại là cách xây dựng một truyện ngắn biểu cảmTrương Hán Siêu cũng  mượn lối văn tự sự này để viết bài  Bạch Đằng Giang   Phú . Trong Thượng Kinh Ký sự của Lê Hữu Trác, ta thấy có cốt truyện, có tình tiết, có miêu tả, có kín đáo bày tỏ cảm xúc, có số phận,  tính cách  các tuyến nhân vật rất rõ ràng ( phe tác giả và những người cùng lý tưởng  sống với ông, phe  chúa Trịnh và quan lại ), mỗi chương lại có điểm  vài bài thơ  đặc sắc, cô đúc nội dung chính của chương, khiến người đọc vô cùng thú vị, đó là những giá trị của một tác phẩm  không có hư cấu  . Nhưng giá trị chính là “ sự thật” của tác phẩm. Đó là những trang nhật ký hiếm thấy trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam.
2 Đặc điểm nghệ thuật chung và hướng đọc hiểu :
 - Tác phẩm tự sự ( các dạng truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết , truyện truyền kỳ,kịch.) có nhiều yếu tố nghệ thuật độc đáo , tạo nên những giá trị riêng của văn học . Đó là kết cấu, tình huống truyện , tình tiết , hình tượng, ngôn ngữ .
 Mọi văn bản tự sự ( trừ những truyện ngắn lãng mạn của Thạch Lam) dường như đều có cốt truyện. Chính kết cấu đã tạo nên cốt truyện, linh hồn của tác phẩm . Dù câu chuyện có thể được xây dựng theo dạng  bố cục mới lạ, sáng tạo,khác với bố cục truyền thống (theo trình tự thời gian hay không gian )thì cốt truyện vẫn được thể hiện qua năm bước ( giới thiệu, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm, mở nút ) và gắn liền với quá trình hình thành, phát triển số phận,tính cách nhân vật chính . Với những bộ tiểu thuyết lớn như  tiểu thuyết Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo, nhiều cốt truyện chồng chéo, nhưng vẫn có một cốt truyện chính  để nhân vật chính xuất hiện xuyên suốt tác phẩm .
Tình huống là phần  tạo một nút thắt ( hay là hành động thắt nút của tác giả ), là biến cố lớn , cực kỳ quan trọng xảy ra cho nhân vật chính. Biến  cố này sẽ đeo đuổi  nhân vật này  suốt câu chuyện, chi phối nhiều nhân vật, nhiều số phận, nhiều tính cách khác bao quanh nhân vật chính .Khi tổ chức hay tham gia tiết Đọc hiểu văn bản tự sự, người đọc cần chú ý tình huống, dù có khi đối diện với một trích đoạn ( trong truyện ngắn hay tiểu thuyết ) không có việc xuất hiện của tình huống .Tình huống chỉ  có giá trị ( được  phát triển, đẩy lên thành cao  trào, buộc phải giải quyết   vào cuối tác phẩm ) nhờ vào  vô số tình tiết .Đó là những sự biến quan trọng  xảy ra  cho nhân vật chính hay các nhân vật có liên quan đến nhân vật chính. Trong kịch, sự biến xuất hiện rõ nhất ở  từng cảnh,từng màn , ở xung đột  giữa  cá nhân vật , đẩy số phận  nhân vật chính đến cao trào, tính cách nhân vật này được bộc lộ . Trong truyện, các tình tiết được nhà văn chú ý bằng cách kể tỉ mỉ, miêu tả cụ  thể và bộc lộ cảm xúc sâu sắc , tạo nên các đoạn văn “ tam kết”, gồm tự sự, miêu tả, biểu cảm rất đặc sắc và giá trị của văn tự sự . Chúng ta gọi đây là các phương thức  tự sự
 - Ngôn ngữ trong các văn vản thuộc thể loại này rất phong phú , gồm ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật. Trong kịch, bên cạnh hành động, ngôn ngữ nhân vật giữ vai trò quyết định thành công của vở kịch, bởi lẽ , bắt nguồn từ đặc trưng của kịch ,nhà soạn kịch   chỉ có một lối duy nhất để xây dựng hình tượng nhân vật,  khắc họa số phận, tính cách nhân vật là thông qua lời nói của nhân vật, qua đối  thoại và xung đột với các nhân vật khác .Với truyện, do điểm nhìn ( vị trí tác giả chọn để xây dựng nhân vật )khác nhau nên ngôn ngữ  truyện rất đa dạng,sinh động,đem đến cho tác phẩm sức lôi cuốn độc  đáo .
-     Hình tượng nhân vật cũng là yếu tố cốt lõi , là sự sống của tác phẩm ,có giá trị ngang hàng với chủ đề tư tưởng của tác phẩm . Hình tượng  gắn liền với vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ, nhân cách của nhân vật chính, với thời đại và bối cảnh xã hội nhân vật  đó xuất hiện. Nhiều hình tượng nhân vật , bắt nguồn từ ngòi bút hư cấu của tác giả, đã trở thành những biểu tượng đẹp đẽ, cao quý của văn học và cuộc sống
PHƯƠNG PHÁP SÁNG TÁC

1.        Vị trí của các phương pháp sáng tác đối với tác giả- tác phẩm văn học :Bên cạnh thể loại, nhà văn còn chọn một khuynh hướng riêng để chuyển tải nội dung tư tưởng tác phẩm , chúng ta quen gọi là phương pháp sáng tác ( hay  còn được gọi là khuynh hướng nghệ thuật, một trào lưu, một chủ nghĩa, hay dòng văn học ) Phương pháp sáng tác xuất hiện trên một quá trình lịch sử nhất định . Phương pháp này tạo ra sự gần gũi giữa một số tác giả về quan điểm tư tưởng-thẩm mỹ,về đặc điểm  nghệ thuật cơ bản cơ bản thể hiện qua những tác phẩm nghệ thuật của họ .
.
2.      Định nghĩa : Phương pháp sáng tác là những nguyên tắc bao quát,chỉ đạo mối quan hệ của tác giả với hiện thực cuộc sống  trong suốt quá trình nhận thức, cảm thụ và tái hiện cuộc sống đó , thông qua việc hình thành, xây dựng nên tác phẩm của mình . Phương pháp sáng tác gắn liền với nội dung tư tưởng ( chủ  đề ) của tác phẩm văn học tuy nhiên cũng có tác động đến thể loại.
 Phương pháp sáng tác vừa là phương thức phản ánh thực tại, vừa là những nguyên tắc   chọn lọc, mô tả, đánh giá, khái quát  những hiện tượng cuộc sống mà tác giả  tự mình tuân thủ trong quá trình xây dựng một tác phẩm theo  sở trường và sở thích của mình .
 Phương pháp sáng tác là một hiện tượng sống  , ra đời và phát triển  cùng với sự ra đời và phát triển   của các nền văn học khác . Phương pháp sáng tác bao giờ cũng tồn tại ở dạng cụ thể, sinh động,   mang sắc thái độc đáo ,  khác nhau của mỗi tác giả . Chẳng hạn,  trong thực tiễn sáng tác văn học, không có một phương pháp hiện thực phê phán trừu tượng, mà chỉ có phương pháp hiện thực phê phán của  Nguyễn Du, của Vũ Trọng Phụng, của Nam Cao …
 Phương pháp sáng tác có khi được hiểu như một phong cách nghệ thuật riêng của mỗi tác giả .( tác giả  thường viết về đề tài nào, chủ đề gì, và viết như thế nào ) Phong cách  Vũ Trọng Phụng là giễu nhại với lối trào phúng cay độc, lên án sự mục ruỗng của xã hội thực dân nửa phong kiến  Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Trái lại, Nam Cao lại chọn hai đề tài là trí thức  nghèo và nông dân,  phê phán sự xung đột giai cấp , bằng  ngòi bút  triết lý, có khi lạnh lùng , nhưng đằng sau lại thấm đẫm tình người .
3 . Ý nghĩa  của các phương pháp sáng tác  : Tuy nhiên, phương pháp sáng tác chứa những nét giống nhau trong phương thức phản ánh thực tại, trong cách chọn lọc,đánh giá những hiện tượng đời sống . Sự  tương đồng này do điều kiện xã hội –lịch sử  cụ  thể quy định , tạo  ra sự gần gũi,  thống nhất giữa các nhà văn cùng thời đại ,  cùng theo một khuynh hướng sáng tác nhất định . Các tác giả Tố Hữu, Nguyễn Trung Thành,Nguyễn Thi, Nguyễn Khoa Điềm có thể  chọn những thể loại  khác nhau ( thơ lục bát, thơ tự do, truyện ngắn ) ,  chọn những bối cảnh không gian khác nhau ( Việt Bắc, chiến khu  Bình Trị Thiên , Tây Nguyên,  Nam Bộ ) , nhưng họ đang sống cùng một thời đại  hai miền Bắc Nam  kháng chiến chống Mỹ,   cùng có trách nhiệm xây dựng nhà nước cách mạng xã hội chủ nghĩa , cùng đứng bên cạnh nhân dân họ để gìn giữ mảnh đất cha ông đã gầy dựng với bao lao nhọc .  Vì thế, họ đều chọn phương pháp cách mạng để hình thành  tác phẩm của mình
 Phương pháp sáng tác bao giờ cũng gắn liền và chịu sự chi phối  trực  tiếp của một thế giới quan nào đó .  Vì vậy, ở một nhà văn, sự thay đổi thế giới quan  thường dẫn tới sự thay đổi trong phương pháp sáng  tác . Chúng ta không ngạc nhiên khi các nhà  thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới đã nhanh chóng viết những  giòng thơ dào dạt tình yêu quê hương , đất nước khi họ đứng trên lập trường của giới công nông .Bởi lúc này, thế giới quan   của họ đã thay   đổi .
  Nhưng phương pháp sáng tác chỉ tạo ra khả năng thuận lợi hay không thuận lợi   cho việc phản ánh, sáng tạo nghệ thuật của  tác giả trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, chứ không trực tiếp tạo ra chất lượng tác phẩm nghệ  thuật. Do đó, không nên máy móc cho rằng phương pháp này tốt hơn phương pháp kia .
3.      Phân loại :  Ngoại trừ  bộ phận văn học dân gian, các tác giả có thể chọn phương pháp cách mạng (hay hiện thực  xã hội chủ nghĩa), phương pháp hiện thực phê phán , phương pháp lãng mạn trong quá trình xây dựng cốt truyện, chọn tình tiết, khắc họa tính cách nhân vật. Văn học trung đại mang ba nội dung chính ( yêu nước , nhân đạo, cảm hứng thế sự ) cũng bị chi phối bởi ba phương pháp này .
Tuy nhiên, các thể loại tự sự phổ  biển :  truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kịch, ký sự, truyện truyền kỳ … được nhà văn  quan tâm đến phương pháp sáng tác nhiều nhất

 . MỐI QUAN HỆ GIỮA THỂ LOẠI- PHƯƠNG PHÁP SÁNG TÁC :
 Các thể loại dưới đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thể loại và phương pháp sáng tác
1        .TIỂU THUYẾT :
1.      Nguồn gốc :Ở phương Đông,  khái niệm “ tiểu thuyết” ,(theo sách Hán Thư, Trung  quốc ),  có nguồn gốc  từ những chuyện vụn vặt nơi  thôn trang, phố phường ( tiểu ) mà quan chức   thu gom  được, nhằm đúc kết thành những vấn đề liên quan đến  tình hình  chính trị, kinh tế , phong tục tập quán của người dân (thuyết ). Vì vậy tiểu thuyết rất gần gũi với cuộc sống của nhân dân,  được mọi tầng lớp nhân dân yêu thích
2        Quá trình phát triển : Cùng với kho tàng văn học dân gian ( thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn…) những mầm mống của tiểu thuyết hình thành . Đến đời Minh Thanh,TK XV,  với  Tam quốc chí (La Quán Trung ) Thủy hử ( Thi nại am ) Hồng lâu mộng ( Tào Tuyết Cần ) , tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đi vào giai đoạn chín muồi .
 Ở Việt Nam , Hoàng Lê nhất thống chí ( Ngô gia văn phái ) bộ tiểu thuyết lịch sử  văn xuôi chữ Hán mang những yếu tố rất gần gũi  với tiểu thuyết hiện đại. Truyện Kiều (  Nguyễn Du )  viết bằng thể văn vần( thơ lục bát) đã quan tâm nhiều đến  đời sống thật của con người, đến quá trình diễn biến tâm lý của nhân vật .
 Ở phương Tây, có nhiều khái nhiệm quanh  danh từ “ tiểu thuyết”. Trước hết, đây là một truyện dài  ( novel có nghĩa là a book-length story , nghĩa là một  văn bản  chứa câu chuyện  dài, câu chuyện này có thể  là những biến cố lịch sử, là sự  hư cấu của tác giả ). Với dạng truyện dài có cốt truyện  đề cập đến những mối tình lãng mạn, hay sự hư cấu phong phú, người ta gọi bằng từ “ romance” (  bây giờ  từ này có nghĩa   là sự lãng mạn,là lối   phá vỡ những nguyên tắc chung )Hay loại tiểu thuyết   có nhân vật chính là những con người của lịch sử, tác giả mượn để xây dựng thành nhân vật văn học, pha nhiều màu sắc hư cấu,  , được gọi bằng một từ mà cả người dùng tiếng Anh, tiếng Pháp đều chọn : roman à clef.
   Trong cuộc sống  hội nhập hiện nay, có một danh từ  phổ biến dành cho khái niệm “  truyện dài tự sự”  là  fiction ( tên gọi một thể loại  văn học như truyện dài,truyện,  được hình thành từ những con người và biến cố tưởng tượng ra , đối lập với từ non-fiction  thuộc dạng ghi chép người thật, việc thật ), “ a work of story” (một tác phẩm chứa nhiều  câu chuyện kể )

3Định nghĩa : tiểu thuyết ( tiểu: chi tiết, tình tiết nhỏ, thuyết :  phân tích, nói rõ ra )là   một  từ khái quát , để chỉ những tác phẩm văn học tự sự  có rất nhiều tình tiết, nhiều nhân vật,( tiểu ) dựng lên một bức tranh xã hội sống động( thuyết )
4. Đặc  điểm và hướng khai thác một tiểu thuyết
         -một bức tranh cuộc sống xã hội phong phú, đa dạng,nhiều  tình tiết, nhiều nhân vật, thời gian  dài, không gian rộng, hình thành từ sự hư cấu( nối kết những điều không  thể có trong đời thật ) tưởng tượng( nghĩ đến , hình dung và mô tả những sự kiện không có trước mặt )  và sáng tạo( từ những cứ liệu cuộc sống mà làm c ho tốt hơn ) của tác giả

-          Số lượng nhân vật đông đảo, có nhiều tuyến, được  tác giả miêu tả tỉ mỉ từ ngoại hình đến nội dung, nhằm khắc    hoa  số phận,tính cách
-          Ngôn ngữ tác phẩm đa dang nhiều dạng (ngôn ngữ tác giả hay người kể chuyện, ngôn ngữ đối thoại hay ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ nội tâm nhân vật,    đoạn trữ tình ngoại đề
-           
-          Kết cấu  độc đáo,  bao gồm nhiều chương  đoạn,  có tính sáng tạo để hình thành cốt truyện, nhằm bộc lộ chủ đề
-          Phối hợp với nhiều đặc điểm riêng của nhiều loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, hội   hoa  điêu khắc…. Các lĩnh vực khác ( chính trị, kinh tế,giáo dục, văn hóa xã hội )cũng được đề cập trong tiểu thuyết
4. Hướng đọc hiểu một tác phẩm tiểu thuyết  cụ thể  : Trong chương trình Ngữ văn, do lượng thời gian hạn chế, học sinh chỉ loáng thoáng nắm bắt  các yêu cầu chính quanh tác phẩm ( tác giả, cốt truyện, chủ đề, đặc điểm nghệ thuật chính ), phục vụ cho việc tìm hiểu một đoạn trích ngắn ngủi, nên yêu cầu quan trọng là phải đọc cả tác phẩm.
  Tuy nhiên, khi không có điều kiện tìm hiểu trọn vẹn câu chuyện qua hằng trăm trang sách, thì cần lưu ý các điểm :
-          Nắm rõ bức tranh cuộc sống xã hội phong phú, đa dạng   thông qua cốt truyện, nhân vật chính( có liên quan đến đoạn trích từ Sách giáo khoa ) được mô tả tỉ mỉ  từ ngoại hình, nội tâm như thế nào  những tình tiết liên quan đến việc tìm hiểu số phận,tính cách nhân vật.
 Thí dụ : Ở tiểu thuyết Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng,   thành phố Hà Nội và giai đoạn đầu thế kỷ XX , khi người Pháp đã ổn  định thuộc địa về chính trị, họ đã đưa những nét văn hóa của châu Âu vào xã hội Việt Nam.  Nhưng do sự tiếp thu không trọn vẹn của giới thượng lưu thấp học  , những giá trị đạo đức được  người xưa ngàn đời gây dựng,nay đảo  ngược tất cả . Đạo tam cương ( vua tôi,cha  con, chồng vợ ) và   ngũ thường ( nhân ,nghĩa,lễ ,trí,tín )   của nam giới hay đạo  tam tòng ( tại gia tòng phú, xuất giá tòng phu, phu tử tong tử ) và tứ đức của  những người phụ nữ   bỗng như biến mất, nhường chỗ cho những hủ tục lạc hậu, những bản chất tầm thường trong con người ( tôn thờ danh vọng, tiền bạc, nhan sắc ). Nhân vật Xuân tóc đỏ được cả xã hội đó   đề cao là “ người hùng” của họ.Hắn hai nhăm tuổi, mồ côi,  tinh quái lọc lõi ,lại gặp vận may ( từ ngày giờ sinh, từ chân dung mặt mũi).Ước mơ cao đẹp : trở thành một vận động viên quần vợt nổi tiếng.  Được bà Phó Đoan chiếu cố,  giới thiệu cho chủ hiệu thời trang Văn Minh, Xuân  bắt đầu gia nhập xã hội thượng lưu . Từ nhà  quản lý , rồi giáo sư quần vợt, gia sư ,rồi đốc tờ,ngài cố vấn ( cho ông Phán mọc sừng,  cho nhà sư Tăng Phú )và là anh hùng dân tộc . Đó là về danh tiếng ,địa  vị. Đằng sau chức tước và tiếng tăm, hắn thu về những món lộc rất hời, mà nhiều người tự giác trao cho. Rồi hắn là nhân tình của Bà Phó Đoan, cuối cùng là phu quân cô Tuyết,  tiểu thư cụ cố Hồng, sẽ được hưởng gia tài lớn cụ chia cho… Tác giả chọn ngòi bút trào phúng để dẫn dắt câu chuyện. Ngôn ngữ tác giả  sống động, linh hoạt với lối phóng đại, chơi chữ, tương phản ( nói ngược ),  lý giải những tình tiết  đầy lôi cuốn trên từng trang sách, soi sáng , phê phán, đả kích và cay độc lên  án những mặt của giới thượng lưu khi họ quay lưng với chữ hiếu ( với ông bà, cha mẹ ) chữ tình  ( với vợ chồng ) chữ nghĩa ( với  đồng loại )
-

  -Đặt đoạn trích vào trong bộ tiểu thuyết ( vị trí đoạn trích, các tình tiết và nhân vật mô tả những khía cạnh nào về  số phận, tính cách, mối quan hệ giữa các nhân vật , thủ pháp nghệ thuật chính, phương thức biểu đạt độc đáo của toàn tác phẩm thể hiện như thế nào qua đoạn trích,  từ đó  hiểu rõ chủ đề tư tưởng của bộ tiểu thuyết hiện lên qua góc độ nào…)
 Chẳng hạn qua đoạn trích “ Hạnh phúc một tang gia”, ta  hiểu đây là phần  cuối tác phẩm, xã hội thượng lưu bộc lộ rõ thói sống phô trương, đề cao tên tuổi,  sự giàu sang, sự mê đắm sắc dục , qua không khí đưa tang cụ tổ, người ông đáng kính của  giòng họ cụ cố Hồng . Đó là tính cách chung của những con người thượng lưu ngày ấy.   Thủ pháp châm biếm thể hiện từ ngôn ngữ tác giả, cách chọn điểm nhìn, ngôn ngữ nhân vật . Các phương thức  biểu đạt quan trọng ( kể chuyện,  miêu tả , biểu cảm) được tác giả vận dụng  rất đắt , phối hợp với nhau nhuần nhuyễn, tạo nên tiếng cười trong nước mắt của người đọc
             -Cần chú ý đặt phương pháp sáng tác mà tác giả chọn khi xây dựng tác phẩm, vì đây là lối dẫn đến hai mặt : chủ đề và nghệ thuật   Những bộ tiểu thuyết được  chọn giới thiệu là những tác phẩm văn học có giá trị rất lớn về nhiều mặt. Hướng khai thác “ đặt đoạn trích trong thể loại tác phẩm và phương pháp sáng tác ” cũng là một biện pháp kích thích nhu cầu tìm đọc của học  sinh , bước đầu hình thành trong học sinh lòng yêu thích văn học và kỹ năng đọc sách.
  Ở  đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia”, ngay nhan đề mang màu sắc “ nói ngược”  đã mang theo dụng ý phê phán quyết liệt của tác giả . Từ đó,  chúng ta sẽ đi theo trình tự : tác  giả phê phán  những điều gì, bằng hình thức nghệ thuật nào, có liên quan đến  mục đích chung khi sáng tác tiểu thuyết này ở góc  độ nào ?
 B TRUYỆN NGẮN :
1.     Định nghĩa : truyện ngắn luôn mang theo một câu chuyện kể, thông qua cốt truyện,  gồm các hành độngcủa nhân vật chính, diễn tiến theo một trật tự tư duy , gồm 5 bước :khởi đầu ( nhân vật chính là ai,sống ở đâu, cảnh ngộ .)tình huống tạo một nút thắt ( biến cố quan trọng xảy ra cho nhân vật, chi phối toàn bộ câu chuyện )tăng tiến ( những  biến cố  sau tình huống, xung đột cứ đẩy lên cao ) đỉnh điểm (trạng thái khủng hoảng cao nhất, xung đột gay cấn nhất) mở nút (   tình huống được tháo gỡ, vấn đề đặt ra trong tình huống nút thăt  được giải quyết  ,cả câu chuyện bước vào  giai đoạn thoái bộ )
2  .Đặc điểm : Truyện ngắn khác với tiểu thuyết hay ký sự,tản văn,tùy bút
-           - có kết cấu  chặt chẽ:  phải đảm bảo trọn vẹn 5 bước  đã nêu. Tình huống cụ thể trong truyện ngắn luôn luôn  cần được chú ý- thời gian ngắn,không gian hẹp. Năm  bước này tập trung vào  một xung đột (tình huống ) và phải  vượt qua xung đột ấy. Dòng chảy của câu chuyện  nhờ kết cấu  được trở nên  liên tục,giúp người đọc hòa mình hoàn toàn vào câu chuyện.

 
 - số phận ( cùng tính cách nhân vật ) là yếu tố trọng tâm của truyện ngắn. Tác giả  dùng tác  phẩm  để chỉ chạm đến và chiếu  sáng   số phận trong một khoảnh khắc,  hay giải quyết số phận của nhân vật trong chính khoảnh khắc ấy. Truyện ngắn  chỉ tập trung   vào một nhân vật . Xung đột  (giữa con người và con người, giữa con người và thiên nhiên hay trong nội tâm của nhân vật)
-          - sự dồn nén, sự tinh chế, sự loại trừ nên  viết truyện ngắn rất khó. Từ dùng  chính xác nhất, tiết kiệm nhất, bay bổng nhất , cụ thể, hình ảnh, chi tiết sống động Truyện ngắn không phải là một truyện dài được rút ngắn lại , dù  dung lượng một truyện ngắn có thể bằng một chương trong truyện dài. Truyện ngắn đề cập đến cuộc đời một nhân vật, mô tả   trong một phạm  vi rất hẹp ( có sự  hạn chế tuyệt đối về  thời gian ,không gian ,nhân vật) tình tiết ít, ngôn từ  tiết kiệm nhưng phải  giải quyết rốt ráo, để người xem không thể thắc mắc với tác giả, có thể đọc tiếp những chương sau đó. Phải làm sao  độc giả phải nêu vấn đề cho nhân vật trong những giới hạn nghiệt ngã đó.
-          - mang nhiều yếu tố hư cấu : cũng như tiểu thuyết , truyện ngắn thuộc dạng “fiction”, cho phép tác giả hư cấu, sáng tạo,tưởng tượng.  Các thể  ký sự,tản văn,tùy bút,( dạng non-fiction )  hoàn toàn phải tôn trọng sự thật.
-           
-           
-            3. Quá trình hình thành : truyện ngắn là một câu chuyện được kể dựa theo cốt truyện. cốt truyện   hình thành thông qua các hành động của nhân vật .Nhân vật  bộc lộ tính cách  thông qua  các hành  động .
                                                 Xung đột giữa các tính cách hoặc giữa tính cách và hoàn cảnh tạo ra vấn đề của truyện ngắn
4. Ý nghĩa xã hội của truyện ngắn:
-          - Truyện ngắn luôn nêu được các vấn đề nóng bỏng của lương tâm, tâm hồn, đại diện được cho đa số người đọc trước các vấn đề xã hội, chính trị, đạo đức , tâm linh soi sáng, đánh thức, đập vỡ một điều gì.
-           Theo Millhauser, truyện ngắn mang theo  “quả thật đằng sau cái vẻ khiêm tốn ấy(  dung lượng nhỏ ) có chứa một tham vọng thực sự,( tư tưởng lớn ) muốn chinh phục thế giới trong một hạt cát nhỏ bé.( tác  động xã hội sâu sắc )

   Hướng đọc hiểu (Đọc  truyện ngắn  Vi hành của Nguyễn Ái Quốc )
1/  Xác định cốt truyện, chú ý tình huống tạo một nút thắt lớn cho toàn bộ câu chuyện.
-          Giới thiệu: Nước Pháp năm 1923, một số nhà  cách mạng yêu nước ( Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc) đang hoạt động ở đây. Vua nhà Nguyễn ( Khải Định )  trị vì triều chính, được chính quyền Pháp vời đến bản quốc dự hội chợ. Nguyễn Ái Quốc  đơn độc, nghèo túng, thường đáp xe điện ngầm ,còn nhà vua triều  Nguyễn luôn có tùy tùng đông đảo hộ tống, hành lý lỉnh kỉnh, trang phục diêm dúa. Nhưng họ có nét giống nhau: thanh niên tuổi ba mươi, người Việt Nam  mũi tẹt, mắt xếch, da vàng bủng vỏ chanh .

 Thắt nút ( tình huống ) :  Người dân bản địa Pháp đã  gặp Nguyễn Ái Quốc ở toa xe điện ngầm, ngỡ vua Khải Định cải trang để “ incognito”,( không  cho ai  hay biết)
 Phát triển:
-  dân Pháp  cho rằng  vua  cải trang để tiện ăn chơi,( vua mê chơi bời )  rằng tin tức viết về  vua Việt Nam  đến Pháp chỉ đáng in trong  bản tin  của báo lá cải rẻ tiền ( vua không có trình độ) hay chỉ là con rối của đoàn hát (  vua bù nhìn
 - tác giả cũng thừa nhận vua ăn chơi ( thích làm công tử bé) dốt nát ( học cách thực dân Pháp thống trị dân ta tàn tệ ) và bù nhìn (để mặc thực dân mê muội người  Việt )
 - tác giả lên án  bản chất “ incognito” của chính quyền Pháp : lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái chỉ là giả hiệu.
  d Đỉnh điểm : tác giả lên án  bản chất thực dân của Pháp  : người Pháp bản xứ luôn luôn gây khó khăn với những người Việt yêu nước .
 e. Mở nút: Tác giả ê chề trước  con người bán nước của vua Khải Định


2 / xác định nhân vật chính, khai thác số phận ,tính cách nhân vật thông qua các hành động mang tính xung đột - Nhân vật chính là  tác  giả Nguyễn Ái Quốc . Có ba mối xung đột
  (*) Xung đột   tác giả - người dân bản địa Pháp: khi họ nhầm lẫn giữa tác giả và nhà vua,  cho rằng chính vị vua đang “ cải trang , đi ra ngoài mà không cho người dân nhận ra mình, biết mình là ai”( incognito ) , họ không ngần ngại vạch trần  bản chất con người thật của nhà vua ( ăn chơi,  dốt nát, bù nhìn ), thông qua những   hiện tượng  họ chứng kiến ở Pháp
Tác giả chua xót và đắng cay trước thái độ miệt thị   đấng thiên tử của mình .  Nhưng từ  thái độ chỉ trích vua Việt Nam  của người dân bản địa Pháp, tác giả nhận ra người dân bản xứ Pháp không chấp nhận mẫu vua bù nhìn ,  dốt nát,ăn chơi mà Pháp tạo ra, có thể họ cũng không ca ngợi chủ trương mị dân của nhà nước họ, và có thể  họ cũng có phần nào thiện cảm với phong trào cách mạng Việt Nam.

  (*) Xung đột   tác giả -vua Khải Định:  Tác giả đồng tình với cách nhìn nhận bản chất thật của vua, ông còn chỉ ra những sự kiện nghiêng màu sắc chính trị hơn : muốn làm công tử bé ( ăn chơi ) thích học lối Pháp cai trị dân ta ( dốt nát )  để mặc thực dân  đặt ách cai trị dân ta ( bù nhìn )
 (*) Xung đột   tác giả-  chính quyền bản quốc Pháp : Tác giả công kích Pháp đi ngươc chiêu bài “ tự do, bình đẳng, bác ái” .
từ  thái độ lên án của người dân bản địa Pháp
-          3/sự dồn nén, sự tinh chế, sự loại trừ  .Từ dùng  chính xác nhất, tiết kiệm nhất, bay bổng nhất , cụ thể, hình ảnh, chi tiết sống động
-          Tác giả không hề dùng rạch ròi  các  khái niệm trừu tượng ( bù nhìn, mị dân ..) mà chỉ dựng lên những sự việc,tình tiết sống động, hình ảnh. Lối nói ngược,  phóng đại ,chơi chữ là một cách dùng từ độc đáo của dạng truyện phê phán: tác giả chỉ mô tả và nhấn mạnh  sự thật,  nhưng đó là lối diễn dạt dồn nén, tiết kiệm, tinh chế , buộc người đọc luôn đặt câu hỏi cho nhân vật(  tác giả là con người như thế nào ) từ đó hiểu ra vấn đề  chứa tính chiến đấu, thấm đẫm màu sắc chính trị,thể hiện lòng yêu nước thiết tha của người Việt nam .

 - Dung lượng nhỏ, phạm vi thời gian,không gian hẹp: chỉ trong 1235  chữ (bản dịch tiếng Việt), khoảnh khắc  ngắn và hẹp ( ở trường đua, ở tàu điện ngầm ) chiếu theo  hai nhân vật chính , tạo nên hai số phận khác nhau ở Việt Nam ( vua và thường dân ) nhưng giống nhau tại Pháp ( thân phận nô lệ của thực dân ) , soi rõ hai tính cách đối lập: nhà vua cam phận bù nhìn ,  chấp nhận dốt nát để  được ăn chơi, còn tác giả thì kiên quyết đấu tranh đòi tự do, bình đẳng, bác ái  cho dân tộc . Câu chuyện viết bằng tiếng Pháp,chỉ duy nhất một từ tiếng Việt “dân” . Cả chủ đề tư tưởng gói gọn trong một từ hiếm hoi này .
-            - Đặt ra những  vấn đề lớn lao( đầy tham vọng ), hướng đến  hai đối tượng độc giả “nặng ký” là vua Việt Nam và thực dân Pháp, lại  phải khiêm tốn ( dung lượng), để chinh phục  thế giới trong một hạt cát(  kêu gọi sự đồng tình của thế giới) buộc lòng tác giả phải chọn những  hình thức nghệ thuật này  Định,  kết án chính sách mị dân,đi ngược lại lá cờ tự do,  bình đẳng, bác ái của Pháp )


-             Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng, truyện ngắn  được ví như một anh chàng nhà quê, điệu bộ lễ phép ngồi ở gần cửa, riêng một góc, gặp ai nhìn mình cũng mỉm cười đáp lễ, ngượng ngập nhưng không ra vẻ cầu cạnh.( dung lượng ngắn,thời gian  hẹp, không gian nhỏ, nhân vật ít ) Bạn dễ chú ý đến anh chàng này(  tư tưởng chủ đề quan trọng )
-         Hay  một người đầy tài năng đang giấu mình rất kỹ, hoặc một người tuy chẳng tài gì( dung lượng nhỏ ) nhưng vừa chân ướt chân ráo đến từ xó xỉnh nào đó, thế nào cũng mang theo một vài món quà bất ngờ( những vấn đề lớn lao được đặt ra và giải quyết rốt ráo) . 




    C KỊCH
1 Định nghĩa : Kịch là một bộ môn của nghệ thuật sân khấu.
 
1.      Bi kịch : đưa ra những vấn đề mà cuộc sống  luôn đánh giá quan trọng nhưng không giải quyết được. Nhân vật bi kịch có khát vọng cao đẹp, nhưng phải chấp nhận cái chết để đấu tranh bảo vệ chân lý

2.       Hài kịch:nhân vật  có những hành động ,lời nói phi lý, không đúng logic cuộc sống, trái với lương tri, vì hy vọng vô căn cứ, ảo tưởng, tạo nên tiếng cười  phê phán . Các thủ pháp gây cười là  chơi chữ, tương phản, phóng đại . Truyện cười dân gian có thể xem là một vở hài kịch

  3 .Chính kịch : loại hình kịch có cả nhân tố bi kịch và nhân tố hài kịch, nội dung biểu hiện mâu thuẫn phức tạp và sự xung đột giữa nhân tố bi và nhân tố hài, nhưng cuối cùng có thể đi đến một sự giải quyết mâu thuẫn mang nhiều yếu tố  nhân bản , đọng lại trong người xem nhiều “

4 Kịch ngắn:   khắc họa  một vài tính cách, tập trung vào một xung đột ở đỉnh điểm. Kịch ngắn không đòi hỏi nhiều đầu tư trong kịch bản và diễn xuất. Truyện cười dân gian có thể xem là một vở hài kịch ngắn
  Thuật ngữ phương tây ( Anh, Mỹ, Pháp ) có chung những từ chỉ về kịch. Comedy để chỉ những “ vở diễn trên sân khấu có kết thúc vui vẻ”( hài kịch ) tragedy “ với kết thúc đau buồn”( bi kịch ), drama lại được cắt nghĩa “ vở diễn dựa theo một tác phẩm văn học, hay một công trình của nghệ thuật biểu diễn, đánh động nhận thức người xem ở nhiều khía cạnh”. Có thể hiểu  đây là chính kịch . Thuật ngữ “ dramatic irony “ để chỉ  những hệ quả  từ chính kịch, đặc biệt là khi khán giả hiểu những lời nói, hành động của nhân vật  chính kịch  hơn cả bản thân nhân vật . Có thể hiểu theo nghĩa tiêu cực và  tích  cực. Điều này sẽ hé lộ dần khi chúng ta xem vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt, chú ý khía cạnh tích cực của khái niệm này

  2 .Đặc điểm :
 -Về tư tưởng,  
Kịch bản  văn học là một tác phẩm nghệ thuật được tác giả biên soạn nhằm kể lại một câu chuyện , khắc họa số phận,tính cách  nhân vật, từ đó gởi gấm những vấn đề tác giả chọn từ cuộc sống, một cuộc sống khắc nghiệt do mâu thuẫn về tham vọng vốn có trong mỗi con người ( sự sống thể xác, tiền bạc, lạc thú-  thuộc  giòng văn học  hiện thực phê phán ) về khát vọng cao đẹp của tuổi trẻ, mang  giá trị nhân văn sâu đậm ( tình yêu lứa đôi chiến thắng hận thù - thuộc  giòng văn học  lãng mạn ) về trách nhiệm của công dân trước sự tồn vong của lãnh thổ, chính  quyền ,nhân dân(thuộc  giòng văn học  cách mạng ). Kịch hướng về cuộc sống khách quan , dựng lên những bức tranh xã hội qua cốt truyện và nhân vật .
 Những xung đột trong kịch dường như con người không thể giải quyết, bản thân nhân vật chính phải chấp nhận cái chết, nhưng trong con mắt tác giả, một hướng  đi mới, tích cực đang hé mở .

   - Về hình thức  Kịch chứa một câu chuyện có cốt truyện ,có nhân vật, có đề tài và chủ đề  rõ ràng, được  chính các nhân vật tự kể lại trong văn bản (Kịch bản văn học) và diễn trên sân khấu , để nhiều người  cùng xem (Kịch sân khấu). Cốt truyện được cấu trúc chặt chẽ qua hành động của một hệ thống nhân vật , những xung đột của đời sống

   3. Sự phân biệt :Về nghệ thuật : Bốn  yếu tố để giúp học sinh phân biệt  giữa Kịch và truyện ngắn ,hay tiểu thuyết  nằm ở phần nhân vật, ngôn ngữ nhân vật , hành động kịch và sự xung đột giữa các nhân vật.
  a. Nhân vật kịch chỉ được mô tả , khai thác tính cách qua ngôn ngữ và hành động kịch
 b Ngôn ngữ trong kịch lời nói( đối thoại- độc thoại ) của nhân vật trong vở kịch là chính ngôn ngữ nhân vật. Trong kịch, ngôn ngữ nhân vật  là yếu tố hàng  quyết định thành công của vở kịch cô đọng, hàm súc gần gũi ,từ dùng rất  gây ấn tượng mạnh ,có khi như một triết lý sống, lại rất chính xác,ám ảnh , được nhân vật thể hiện rất đúng lúc, đúng nơi . chứa đựng tính cách,số phận nhân vật, nổi bật chủ đề tư tưởng
c Hành động: những việc làm của nhân vật kịch, tạo nên những phân đoạn (cảnh, màn,lớp ) trong vở kịch, hay các bước của toàn bộ vở kịch
Thí dụ : Trương Ba từ chối sống nhờ vào thân xác cu Tí để sống phần xác của cậu bé lên mười( hành động 1). Ông trả  gã hàng thịt về cho vợ anh ta.(hành động 2) Ông chấp nhận cái chết  (hành động 3). Hành động hỗ trợ tích cực để giải quyết những xung đột kịch, gắn liền với ngôn ngữ kịch
D Xung đột  kịch : sự phát triển mâu thuẫn  giữa  hai nhân vật hay hai tuyến nhân vật  trong kịch ( tự sự ) không đồng nhất  quan  điểm, lập trường, cảm xúc, nhận thức về một đối tượng hay vấn đề. Xung   đột bắt đầu từ thắt nút ( hay tình huống trong tự sự ) diễn tiến qua phần phát triển, cuối cùng là cao trào .Trong xung đột kịch giữa hai tuyến nhân vật, sẽ có kẻ thắng ,người thua qua từng màn,cảnh, lớp. Xung đột có tác dụng thúc đẩy hành động của nhân vật và thể hiện chủ đề tác phẩm.


  . 2 Cốt truyện kịch là một câu chuyện diễn biến qua xung đột ,và so với nhiều cốt truyện của các tác phẩm thuộc thể  loại  tự sự, ở đây, năm thành phần cơ bản của một cốt truyện luôn được tác giả thể hiện tập trung, rõ nét,cụ thể nhất .
   Năm thành phần của cốt truyện kịch gồm : giới thiệu,thắt nút,phát triển, đỉnh điểm,mở nút.          Giới thiệu là  Phần mở đầu trong cốt truyện kịch.Tác giả sẽ cung cấp cho độc giả,khán giả biết câu chuyện diễn ra ở đâu (không gian),vào thời điểm nào (thời gian ),nhân vật chính gồm những ai , những đặc điểm về số phận ,tính cách của họ .
  Thắt nút (khai đoan)một thành phần của cốt truyện,là phần mở mối, là biến cố đầu tiên , tạo nên tình huống kịch .
  Phát triển là Thành phần dài nhất của cốt truyện,trải ra từ biến cố sau phần Khai đoan đến biến cố Đỉnh điểm.
   Đỉnh điểm chứa  một thành phần của cốt truyện, biến cố đánh dấu khoảnh khắc mà xung đột của cốt truyện kịch phát triển đến độ căng thẳng nhất ,đòi hỏi phải giải quyết tức khắc,qua đó số phận nhân vật chính trải qua giờ phút quyết định
  Kết thúc (mở nút)một thành phần của cốt truyện, thường tiếp theo ngay sau đỉnh điểm, nói lên tình trạng cuối cùng  của xung đột được miêu tả trong tác phẩm kịch .Ở đại bộ phận các trường hợp, phần này thường nằm ở cuối vở kịch.
C.THỂ  LOẠI THƠ
      1. Định nghĩa :Từ điển Oxford định nghĩa về thơ như sau : : Thơ là một trong các  thể  văn học  hình thành từ sự sáng tạo của con người ,gồm nhiều câu ngắn gọn  nhịp nhàng,  giàu tính nhạc , mô tả những cảm xúc sâu lắng, những ý nghĩ  đẹp đẽ , được viết để bộc lộ những  cảm nghiệm đã trải qua . Như vậy, về mặt nội dung,  thơ độc lập với nghị luận ( giòng suy tưởng nghiêng về trí tuệ của con người )với truyện ,kịch( số phận, tính cách con người )vì    thơ mô tả những cảm xúc sâu lắng, những ý nghĩ  đẹp đẽ.  Về nghệ thuật, thơ gồm nhiều câu ngắn gọn  nhịp nhàng,  giàu tính nhạc, cũng khác biệt  với lối lập luận chặt chẽ,  mạch lạc của nghị luận, hay chú tâm miêu tả, kể chuyện của truyện , hay  ngôn ngữ đậm màu triết lý, chứa xung đột của kịch .
  2.   Đặc  điểm chung :  Đọc thơ, chúng ta chú ý thể thơ,  câu thơ, ngôn ngữ thơ, các biện pháp tu từ,  hình ảnh, nhạc điệu, giọng điệu ,từ đó mà nguồn cảm xúc từ nhân vật trữ tình tỏ lộ . Nếu  đọc các văn bản  tự sự,chúng ta chú ý cốt truyện, tình huống,nhân vật, hình tượng, thì với thơ nguồn cảm xúc và  nhân vật trữ tình là hai yếu tố quan trọng tạo nên nội dung tư tưởng của bài thơ . Nhân vật trữ tình là chính tâm hồn của tác giả, hay nhân vật được tác giả mượn để chuyển tải tứ thơ  thành  nguồn xúc cảm sâu lắng, những  cảm nghiệm đã trải qua, đó là người chiến sĩ binh đoàn Tây Tiến ( Quang Dũng ) bác Hồ ( thơ Tố Hữu ), người bà ( Nguyễn Duy ) Tổ quốc, nhân dân,chính quyền cách mạng ( Việt Bắc – Mặt đường khát vọng ) Cảm xúc là  niềm tự hào, ngợi ca, tin tưởng, hay thương nhớ,  bâng khuâng, xót đau… Nguồn chính là giòng cảm xúc phát triển qua trọn bài thơ, đi theo hướng tích cực ( Từ ấy của Tố Hữu ) hay  giảm dần ( Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tràng Giang của Huy Cận ) Theo  nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng, thơ chứa đựng những khao khát giãi bày, dù vui buồn nhưng chân thành nhất của tác giả . Chúng ta gọi đây là trục cảm xúc .

.  NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA VĂN HỌC  VÀ  TẦM QUAN TRỌNG TRONG VIỆC GIÁO DỤC “CHÂN DUNG NGƯỜI HỌC SINH MỚI” .
    Hướng về chương trình giáo dục phổ thông tổng thể , GS.TS Nguyễn Minh Thuyết   Tổng chủ biên Chương trình GDPT tổng thể nhấn mạnh vào việc “xây dựng chân dung người học sinh mới” được hình thành từ một nền giáo dục đề cao các giá trị nền tảng. Năm 2013, Ngân hàng Thế giới đưa ra lời khuyên cho chiến lược giáo dục Việt Nam:. Giáo dục trung học cần tạo ra nền tảng về nhận thức và hành vi cho học sinh,  từ đây mới có  thể phát triển nguồn nhân lực cho thế kỷ 21 . Nền tảng sẽ quyết định quá trình hình thành các phẩm chất và  kỹ năng.Giá trị nền tảng bao gồm :
           1. Biết vận dụng hiệu quả kiến thức vào đời sống và tự học suốt đời.
          2 .  Có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp;
           3 . Biết xây dựng và phát triển hài hòa các mối quan hệ xã hội;
4 . Có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú;
5. Nhờ đó đạt  được một  cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại.
Theo đó, dự thảo chương trình nêu lên 6 phẩm chất chủ yếu cần hình thành, phát triển ở học sinh là: yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm
A.   Hình thành các phẩm chất:





 Về các giá trị tư tưởng ,dù mang  ngôn ngữ của văn xuôi hay văn vần, chọn những  hình thức biểu đạt là tự sự hay trữ tình, lập luận logic hay nhiều tình tiết rườm rà, nhiều hay ít xung đột …, nội dung tư tưởng  các tác phẩm văn học thường hướng về những chủ đề có thể được xem là những giá  trị nền tảng  được đề cao , từ đó  làm cơ sở giáo dục ,nâng cao nhận thức và hành vi  tích cực cho học sinh.
 Với  phương pháp lãng mạn , văn học lãng mạn đi sâu vào  chủ đề ca ngợi những thái độ sống chân chính, đề cao những giá trị đích thực của con người: lòng nhân ái, yêu quê hương, coi trọng những giá trị tinh thần( sách, niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, lòng đam mê, tình yêu nam nữ trong sáng ..) Giòng văn học này sẽ góp phần bồi đắp cho học sinh  các phẩm chất đạo đức  đẹp đẽ  : tình yêu nước,  thương nhân dân .Học sinh sẽ phải trả lời cho câu hỏi ta là ai Nhà văn  lãng mạn  luôn luôn đưa người đọc tìm về những điều cao quý hơn: một Hà Nội rực sáng,vui vẻ,huyên náo , từ đoàn tàu hỏa đêm đêm từ thủ đô lên miền ngược, băng qua phố huyện. Cư dân ở đây nghèo khổ,  đêm về lại vô cùng tối tăm và vắng lặng, nhưng họ vẫn mòn mỏi thức để bán một vài món hàng cho dân phố huyện ( phở, nước chè,  túi thuốc lào, ly rượu ty ) hay giải trí ( nghe đàn bầu ). Họ không mơ có nhiều tiền ( văn học phê phán ), không hy vọng  được giải thoát kiếp sống này( văn học cách mạng  , mà chỉ lặng ngắm đoàn tàu qua, rồi sau đó “ ngập vào giấc ngủ yên tĩnh”, để chờ một ngày mới .Hay họ “ không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình cho chữ” như nhân vật tử tù Huấn Cao.Quản ngục cũng  từ quan , về quê sống,với bức chữ Huấn Cao tặng, mà ông xem như một báu   vật . Họ coi trọng lẽ sống, hạnh phúc  của những  con người  từng bị vùi dập dưới đáy xã hội ( Jean Valjean , Cosette) họ  phát hiện và trân trọng những  vẻ đẹp yêu thương ẩn sâu trong những tâm hồn khô cháy ( những người con của hai vợ chồng Thenardier). Họ xem mục đích cuối cùng của cuộc đời là được thỏa niềm đam mê những giá trị chân chính : lòng tôn thờ thần tượng bóng chày, yêu biển cả và tự do 
Của    ông lão Sandiago.

 - Ta  phải làm gì ?  câu hỏi của những đáp án nằm trong giòng văn học hiện thực phê phán, hình thành ở học sinh  hai khía cạnh của phẩm chất đạo đức: chăm học, chăm làm . Giòng văn học này  phản ánh và phê phán có phần bi quan về những xã hội thiếu vắng những giá trị đích thực bên trong. Do đặc điểm của phương pháp hiện thực phê phán là mô tả cuộc sống bằng hình tượng tương ứng với bản chất những hiện tượng của chính cuộc sống, thừa nhận sự tác động qua lại giữa con người và môi trường sống, giữa tính cách và hoàn cảnh , các chủ đề chính mang tính chất lên án xã hội đánh mất đi những giá trị sống cao quý, và thay thế vào đó là những con người tôn thờ danh lợi, đam mê những lạc thú  tầm thường trong  cuộc sống   Vì vậy ,nội dung tư tưởng chính của các tác phẩm văn học được sáng tác theo phương pháp hiện thực phê phán  phổ biến là lên án sự  đảo ngược những giá trị sống chân chính . Trong truyện ngắn Chí Phèo, ta thấy sự xung đột của Bá Kiến và người tá điền tên Chí bắt nguồn từ ba yếu tố: Bá Kiến có rất nhiều chức danh và  vô cùng giàu có, hạnh phúc trọn vẹn bên ba người  vợ. Chí   còn độc thân, nghèo khổ,  mang phận tôi tớ,chỉ ước mơ  một ngày nào đó cưới một cô vợ, rồi cùng nhau làm thuê ,dệt vải, nuôi lợn, để có tiền mua dăm sào  ruộng. Có ruộng,Chí sẽ là nông dân, không mặc cảm với kiếp làm tôi tớ. Anh có chút lợi ( ruộng ) có tình yêu ( vợ ) . Nhưng Bá Kiến đã hủy hoại tất cả,chỉ vì ghen .Và hai bên cứ giằng co. Khi gặp Thị Nở,  lòng Chí tràn trề hy vọng rằng giấc mơ xưa nay có thể thành hiện thực. Nhưng không ! Anh  bị từ chối  vì danh là một thằng chỉ có nghề rạch mặt ăn vạ. Đó cũng là lợi. Như vậy,làm sao anh có thể đem hạnh phúc đến cho Thị Nở hay bất cứ một người phụ nữ nào khác .Ai đã đẩy anh vào hố sâu này : Bá Kiến .Nhưng rồi đứa con của Chí sẽ chào đời,rồi lớn lên. Sẽ lại gặp Lý Cường,con trai Bá Kiến. Thế là cuộc xung đột giai cấp,mà xoay quanh ba chữ “ danh ,lợi, tình “ sẽ giằng co mãi không thôi .
Do bản tính tham lam,con người đã tôn thờ danh lợi và những lạc thú tầm thường ,  định mức giá trị thật cao, như lý tưởng sống, lẽ sống duy nhất . Từ đó, họ đã đẩy những con người yếu  thế hơn, những nông dân nghèo xuống hố sâu đau thương. Nhà văn Tô Hoài đã trực tiếp gặp hai tuyến đối lập ấy .Ông đã xây dựng thành những hình tượng nhân vật điển hình của giới thống trị có  rất nhiều quyền lực, của cải và đam mê sắc dục: cha con Pá Tra .  Đó là giá trị sống,theo quan niệm của họ . Từ đó , họ  trở thành những con người nắm luật pháp trong tay, nhưng lại rất mù quáng, hẹp hòi, và tàn bạo, nham hiểm  trong lối đối nhân xử thế .Mỵ và A Phủ là nạn nhân đau thương của họ  Nhưng không chỉ giới thống trị có tiền của,mà ngay trong tâm lý và những hủ tục lâu đời, bản thân người nông dân nghèo cũng mang tư tưởng về danh lợi .Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã chọn một vấn đề   với tình huống nhận thức , buộc người xử lý phải có khối óc sáng suốt và con tim thật nhân ái . Một ngư phủ thường xuyên đánh đập vợ rất dã man , thế nhưng người vợ và cô con gái lớn lại ủng hộ cho hành vi này của anh ta.Phải bỏ công gặp gỡ, trò chuyện, Phùng và Đẩu, “ hai chú cách mạng” mới hiểu rằng : anh chồng tủi hổ vì mang danh đàn ông, chủ một con thuyền,một mái nhà mà để cho vợ con đói

 Câu hỏi thứ ba học sinh sẽ phải trả lời là : cuộc   đời mình sẽ đi về đâu? Con người  trung thực, trách nhiệm . Lịch sử xã hội loài người  bắt đầu với chế độ thị tộc của xã hội công xã nguyên thủy, con người không bận tâm về cuộc sống vật chất cá nhân.Nhưng khi xã hội có giai cấp hình thành, người ta nhận ra rằng : cuộc sống có cống hiến thì sẽ được hưởng thụ . Những nho sĩ phong kiến theo đòi khoa cử với triết lý “ nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”, do đó phải lập công danh ( có chức tước ) . Đồng thời, họ được nhận sự đãi ngộ chính đáng , đó là bổng lộc . Khi về hưu trí, họ có quyền được hưởng thụ theo bản năng :đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng, gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì .Danh lợi, tình yêu nam nữ ở  đây  là những quyền lợi chân chính mà con người được hưởng . Đó là thái độ sống tích cực của Nguyễn Công Trứ . Với ông, đó cũng là những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Cao Bá Quát cũng rất đề cao những “ danh lợi nhân” từ xưa đến nay ( cổ lai ), nghĩa là họ chiếm con số lớn, đông. “ Danh lợi nhân” , những người  say mê học tập, tôi rèn để “tu thân, tề gia, trị quốc ,bình thiên hạ” rất đáng tôn trọng . Họ là những hiền tài của đất nước Họ được triều đình phong kiến tạo điều kiện “bôn tẩu lộ đồ trung”. Trung có nghĩa là ở giữa . Lộ và đồ đều mang chung một nội  dung : con đường .Đường đi tìm lý tưởng cao đẹp của những người yêu nước, thương dân rộng mở, thuận lợi vô cùng . Đó là con đường mà hàng vạn nho sinh đã dấn bước, để tên tuổi họ được khắc lên các bia đá trong văn miếu, trong sử sách nước nhà . Đó chính là con đường mà từ hơn mấy  thế kỷ qua , biết bao nhiêu  hiền tài đã có cơ hội cống hiến   trọn vẹn cho nước nhà . Những chiến sĩ trong trung đoàn 52, mà mọi người bằng gọi một cái tên thân thương, binh đoàn Tây Tiến, đa phần là thanh niên Hà Nội, ra đi với một triết lý  rất đẹp “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ đã cống hiến   trọn tuổi trẻ, không nề hy sinh gian khổ, cũng mong có danh lợi chứ .  Quang Dũng từ một chiến sĩ đã trở thành Đại đội trưởng ( danh ) và được nhận những quyền lợi của một cấp chỉ huy . Và anh cũng có những giờ phút cùng đồng đội, hay cá nhân , tận hưởng những  giờ phút thư giãn đầy ý nghĩa : gặp những thiếu nữ Lào trong đêm hội trại, hay bồi hồi với dáng mềm mại trên độc mộc miền thượng nguồn sông Mã . Đó là hưởng thụ, là hạnh phúc thật trong sáng .
Con người trưởng thành, trách nhiệm,vị tha, hy sinh  (Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão Truyện Hưng Đạo đại vương,Tam quốc chí ,Bi ký của Thân Nhân Trung , Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn ,  Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu , Thu điếu của Nguyễn, Đàn ghi ta của Lorca của  Thanh Thảo, ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa ) Những khuôn mắt khắp các miền đông tây trên thế giới, khác màu da , tiếng nói, nhưng chung một tâm hồn, một trí tuệ, một khát vọng . Ở  Việt Nam,  người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo tỏ rõ là một nhân cách hội đủ các phẩm chất cao quý : chí ,tín, nhân, nghĩa ,dũPhạm Ngũ Lão là vị tướng tài ba   đời Trần,chiến công làm lay động trời đất, nhưng vẫn thấy mình chưa bằng Gia Cát Lượng, nghĩa là vẫn tâm niệm nỗ lực không ngừng . Quả là con người  hiếm có, là tấm gương cho thế hệ trẻ  mọi  thời đại học tập . Phan Bội Châu,nhà chí sĩ những năm đầu thế kỷ XX thấy rất rõ con đường đưa dân tộc thoát khỏi nạn diệt vong chỉ có duy nhất là đưa thanh niên ra nước ngoài học tập, để có đủ năng lực cứu nước .Lời kêu gọi vừa khẳng khái, vừa hình ảnh ,đánh động tâm hồn mọi thanh niên Việt Nam : nguyện trục trường phong đông hải khứ, thiên trùng bạch lãng nhất tề phi
Mỵ và A Phủ( Vợ chồng A Phủ ) là nạn nhân đau thương của họ kẻ mê đắm trong danh-lợi-tình. Chỉ khi cả hai bỏ trốn khỏi chốn địa ngục trần gian này,  đi theo cách mạng, họ mới được sống cuộc sống đúng nghĩa của con người. Tác phẩm được hình thành bằng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa.Ở Chiếc  thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh  CHâu )  , Phải bỏ công gặp gỡ, trò chuyện, Phùng và Đẩu, “ hai chú cách mạng” phải bỏ công gặp gỡ, trò chuyện, mới hiểu rằng : anh chồng tủi hổ vì mang danh đàn ông, chủ một con thuyền,một mái nhà mà để cho vợ con đói. Đẩu ,vốn là chánh án huyện, phải tìm cách gặp riêng anh, vừa giáo dục, vừa  tỏ lòng thấu cảm .Chính quyền cách mạng phải vì dân, vì miền quê này. Đã cấp đất ngay sau ngày đất nước thống nhất, nhưng do làm cá trên  vùng phá, họ không  thể lên bờ. Phải có cách khác,ít ra giúp anh chồng đỡ lo lắng về  miếng cơm nuôi con . Các nhà văn cách mạng có  hướng  giải quyết  tình huống đậm màu sắc bi kịch này, đó là hướng họ về cách mạng, về cộng đồng.
 Đáp án của câu hỏi nêu trên là :
- đề cao tư tưởng bảo vệ chủ quyền dân tộc
- đề cao ý chí đấu tranh giành lại  quyền độc lập, tự do cho dân tộc .
- ca ngợi những tấm gương yêu nước thương dân chân chính , con người    sống có trách nhiệm,hiểu biết , hy sinh
- đấu tranh xóa bỏ những mặt tiêu cực trong cuộc sốn g ( coi trọng tiền tài, địa vị,  tình yêu ích kỷ )
- rạch ròi và có triết lý cụ thể  giữa cống hiến và hưởng thụ

V. PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC: phươngpháp học đổi mới  nhằm giáo dục , rèn luyện 10 kỹ năng cho học  sinh .Đây cũng là môi trường  giáo dục hành vi cho học sinh. Bước đầu đào tạo cho  học sinh  có kỹ năng và kinh nghiệm, khả năng làm việc nhóm và cuối cùng là sự trung thành ( lòng đam mê công việc). Những kỹ năng này  cùng với việc biết tôn trọng nó, sẽ phải được dạy từ nhỏ.
Chương trình học cần trau dồi cho học sinh  10 kỹ năng cơ bản là mười  năng lực cốt lõi  bao gồm những năng lực chung được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển .

Các năng lực tiêu biểu :  Năng lực tự chủ và tự học tự quản lý, năng lực giải quyết vấn đề, sáng tạo, năng lực giao tiếp, hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ, . năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực thẩm mỹ , năng lực tính toán ,năng lực thể chất ...  Nói vắn tắt là học sinh nắm được những  giá trị nền tảng của cuộc sống, có nhận thức và hành  vi tích  cực, để đạt được ba yêu cầu đòi hỏi của công việc khi trưởng thành (có những  kỹ năng  mềm cơ bản , khả năng làm việc nhóm  và sự trung thành, tức là thực sự yêu công việc, yêu sứ mệnh của tổ chức  )sống tử tế với cộng đồng và  sống hạnh phúc
 Các kỹ năng đặc thù mà các giờ Đọc hiểu Ngữ Văn hình thành cho học sinh tập trung vào phương pháp   dạy  của thầy và phương pháp học của trò.
. KHÂU CHUẨN BỊ:
 a  Phía thầy:
- cần đọc và nghiên cứu thật kỹ tác phẩm văn học ( đọc trọn vẹn nếu là tiểu thuyết hay một đoạn trích từ truyện ngắn, một cảnh của kịch ), nghiên cứu một số bài phê bình  có giá trị của những tác giả uy tín . Nếu có thể,  giáo viên nên đầu tư thời gian để viết những bài phê bình này .
 - soạn một hệ thống câu hỏi hợp lý.  Chú ý   các  mục tiêu hướng tới : rèn những kỹ năng và phẩm chất gì cho học sinh ?
 - giao cho học sinh một thời gian dài để các em có điều kiện  chuẩn bị kỹ
* Giáo viên phải  chủ động về những  kiến thức, kỹ năng sẽ hình thành cho học sinh từ bài này, phải hình dung những  khúc mắc học sinh nêu , làm cho học sinh lĩnh hộicác nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học  các em đang đọc hiểu, cuối cùng   đi đến chân lý . Cần phải dùng thêm  “giáo tài  ” (hình ảnh, tư liệu…). Giáo viên ( với  tư cách “chìa khóa”, là một mảnh của nội dung giáo dục) phải  chuyển hóa nội dung đó thành nhận thức của học sinh trong suốt   buổi thảo luận, thu hoạch hay  các hoạt động trí tuệ tương tác  ( hoạt động ngoài trời , hoạt cảnh, diễn kịch sân khấu ..) Người quyết định nội dung giáo dục cuối cùng phải là người giáo viên, người am hiểu cả chương trình, sách giáo khoa lẫn tình hình thực tế của trường học và đối tượng học sinh. Nội dung  học tập ,giáo dục phải được giáo viên tự tay xây dựng thông qua các điều tra, nghiên cứu cả tài liệu và thực tiễn của bản thân.  Môn Ngữ Văn là môn học  xã hội,một trong  những môn có mối quan hệ chặt chẽ với đời sống và trải nghiệm của học sinh ngoài xã hội , điều này càng có ý nghĩa sống còn của tác phẩm văn học trong nhà trường  Nội dung giáo dục từ văn học  phải được “chuyển hóa” thành nhận thức của học sinh thông qua sự gia công sáng tạo của giáo viên

b. Phía trò :
  - cần đọc và nghiên cứu thật kỹ tác phẩm văn học ( đọc trọn vẹn nếu là tiểu thuyết hay một đoạn trích từ truyện ngắn, một cảnh của kịch ), nghiên cứu một số bài phê bình  có giá trị của những tác giả uy tín .
 -  trả lời những câu hỏi thầy giao . Dựa trên hệ thống câu hỏi, học sinh sẽ viết một bài thu hoạch ngắn, phổ biến cho nhóm của mình  trước buổi học. Qua các khâu  đọc tác phẩm, nghiên cứu hai bài phê bình tác phẩm, trả lời các câu hỏi trong một văn bản ngắn ( độ hai trang vở học trò ), học sinh sẽ được luyện tập những kỹ năng cơ bản : đọc hiểu, trau dồi tư duy  logic  khi đọc và viết, phong phú hóa lượng ngôn từ, cảm xúc cũng được phát triển  từ tác phẩm . Kỹ năng tự học, tự chủ, sáng tạo, hợp tác
* Học sinh  dùng những bài phê bình này với ba  mục đích :  tiếp thu  kiến thức(Tiếng Việt, Làm Văn) , rèn luyện các  phẩm chất  đạo đức  , trau dồi các kỹ năng : kỹ năng tạo lập văn bản, kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng tự học, tự chủ, sáng tạo và cả kỹ năng phản biện .
Hoạt động tự học có hướng dẫn - khâu tổ chức cần hợp lý và bài bản- hoạt động chú trọng đến tính cá nhân khá nhiều- có nhiệm vụ hình thành và phát triển các kĩ năng học tập cho học sinh để lĩnh hội nội dung học tập chính khóa và là  cơ hội tốt khơi dậy niềm đam mê học tập và tính tự chủ của học sinh. Hơn nữa, để thực hiện hoạt động này nhà trường và các thầy cô giáo cần có sự ủng hộ và hợp tác tốt với phụ huynh học sinh đồng thời có hướng dẫn cụ thể và thống nhất để học sinh được cha mẹ hướng dẫn, kèm cặp khi ở nhà
KHÂU TIẾN HÀNH :
  a Trò : Đến lớp, trong hai tiết học, các học sinh sẽ trao đổi trên hệ thống câu hỏi đã  đưa ra, có thể bác bỏ những luận điểm của nhà phê bình,có thể nêu thêm những đánh giá riêng.
 - Cuối buổi, cả lớp thống nhất được một số kết luận chung, nhưng mỗi người vẫn giữ được những quan điểm và câu hỏi riêng cho mình.
b Giáo  viên : có nhiệm vụ đặt thêm  các câu hỏi để đảm bảo cuộc thảo luận có trọng tâm, đồng thời  giúp học sinh củng cố vững chắc lập luận của mình .
 -  Bài kiểm tra sẽ là những vấn đề học sinh tự chọn và tâm đắc, hoặc giáo viên nêu, nhưng tuyệt đối tôn trọng ý kiến riêng của từng em . Chính cách tiếp cận giáo dục mang tính thân thiện, chấp nhận sự đa dạng, khác biệt của từng học sinh cụ thể, đã làm nên thành công của những nền giáo dục tiên tiến.

- Sau nhiều buổi học, tiếp xúc nhiều tác phẩm, học sinh  sẽ chọn ra cho mình một số  câu hỏi muốn đào sâu, và viết hai bài luận triển khai chủ đề đó. Mỗi bài luận dài khoảng 6-8 trang, nhưng cần sự đầu tư rất lớn, không chỉ đào sâu suy nghĩ, học sinh  còn phải tra cứu các bài phê bình đã tồn tại, đối chiếu và phản biện để xây dựng hệ thống luận điểm của mình. (  đây là phương pháp học của chị Quỳnh Anh,từ  Hoa Kỳ )   

. KẾT LUẬN
 
Mục đích dạy và học  môn Ngữ văn mấy chục năm qua chỉ dừng lại ở một từ duy nhất : thi .Tất cả các môn bộ phận ( Đọc văn, Tiếng Việt , Làm văn ) đều nhăm nhăm vào sản phẩm cuối cùng, đó là những bài Tập làm văn .Học sinh chăm chỉ nghiền ngẫm không phải bản thân các  văn bản (tác phẩm)  ngay trong tiết đọc văn bản mà là … những bài tập làm văn mẫu, nay chúng ta dùng chung một danh từ là “ các bài phê bình” .Hãy dùng những bài phê bình này với hai  mục đích về  cung cấp kiến thúc lẫn trau dồi các kỹ năng : mở rộng kiến thức cho tiết Đọc hiểu văn bản, bổ dung những kiến thức về Tiếng Việt, Làm Văn , xây dựng kỹ năng tạo lập văn bản, kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng tự học, tự chủ, sáng tạo và cả kỹ năng phản biện, điều hiếm thấy khi học Văn trước đây.
   Lợi thế của học sinh bậc trung học phổ thông đối với việc học Ngữ Văn là những kiến thức  sẽ được cung cấp trong suốt ba năm học đã được trang bị khá đầy đủ ở bậc trung học cơ sở , đặc biệt với hai phân môn Tiếng Việt và Làm Văn .Do đó, khi các văn bản   được chọn để Đọc hiểu ,  đòi hỏi học sinh phải có những hiểu biết về Thể loại và phương pháp sáng tác, hay các  phương thức biểu đạt và thao tác lập luận, về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp Tiếng Việt. Khi  đọc cuốn “ Tuyển tập 40 bài luận Anh Văn”do An Giang –Nguyễn Văn Ân biên soạn  (nhà xuất bản Trẻ 1998) dành cho sinh  viên quốc tế năm thứ nhất chuyên khoa đại học), chúng ta rất bất ngờ trước những yêu cầu đề bài thật đơn  giản .Đó là những   dạng tự sự ( gồm các  phương thức tự sự,miêu tả, biểu  cảm ) mà ngay học sinh lớp sáu đã làm quen : mô tả nhân vật, mô tả nơi chốn, kể lại một trải nghiệm, hay cao hơn, cần vận dụng các thao tác lập luận ( phỏng vấn theo chủ đề , đối chiếu các nền văn hóa, nhìn nước Mỹ dưới những góc độ khác nhau , các vấn đề sống và chết ..)Để được  trúng tuyển vào học năm thứ nhất, sinh viên phải qua các lớp học dành cho đối tượng xem  Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai .Yêu cầu các buổi học là : Viết tự do tùy thích , mỗi ngày nộp một trang giấy vở ( free writing) , đồng thời mỗi tuần  viết độ hai trang đánh máy, viết lại những trích đoạn từ tạp chí do giáo viên chỉ định ( những bài binh luận xã hội ). Sau đó người chép tự  bình luận nội dung bài báo bằng ngôn từ riêng của mình. Như vậy, để hoàn thành bài tập, sinh viên trước hết phải có kỹ  năng đọc văn bản,  đọc hiểu những đoạn nghị luận bình luận, phải nắm vững các thao tác lập luận . Tiếp đến, người học phải đọc và tóm tắt  hai tác phẩm văn học do  thầy giáo chỉ định. Đồng thời,  người học phải kể một câu chuyện,ít nhất là 5000 từ, đề tài  cũng do thầy đưa ra . Viết từng phần, mỗi tuần nộp để thầy chấm và sửa lỗi, rồi người học đánh máy hoàn chỉnh . Tác phẩm văn học này mỗi học kỳ một truyện.   Như thế , kỹ năng vận dụng các  phương thức biểu đạt,   cách liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, số từ vựng và ngữ pháp có thể vận dụng ra sao ( nếu bạn nắm vững cấu trúc câu,đoạn,  các dùng từ trong Tiếng Việt) thì việc học và thực hành một ngoại ngữ khác rất thuận lợi.
   Tất nhiên học là một quá trình bắt chước , bởi bản thân khái niệm “Tập Làm Văn” có nghĩa là “thực hành  từ lý thuyết đã thông thạo” hay hình ảnh hơn “ chim mới ra ràng học bay”, tuy nhiên nếu tất cả học sinh cùng  thống nhất với  quan điểm , lập trường của  các nhà phê bình và giáo viên, thì tính cá nhân đã bị hủy hoại. Học sinh cần  được thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận riêng về tác phẩm , về nhân vật. Việc học Văn không chỉ là thi cử và điểm số, mà vì  sự sống phía trước còn rất dài của học sinh . Bản thân từ “ Văn” bao hàm rất nhiều ý nghĩa cao đẹp : là người có học , là dáng vể bề ngoài,  là văn vẻ , là sự lễ phép . Không thể biến Văn thành sự tô vẽ   giả dối cũng là “Văn “ .
                                           Viết xong tại Dalat mùa đông 2017







No comments:

Post a Comment