Monday, August 26, 2019

Bài 5 THỂ THƠ ĐƯỜNG LUẬT THẤT NGÔN BÁT CÚ -NHÀN - ( Nguyễn Bỉnh Khiêm )



              
   
  I. GIỚI THIỆU:
    1.  Hoàn cảnh ra đời : Bài “Nhàn” được cụ  Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1491-1585) viết trong những năm tháng  về quê nhà sống  cuộc đời một trí sĩ .
       2.  Bối cảnh lịch sử :Nhìn tiểu sử ta thấy cụ sống trọn thế kỷ 16, một  thiên niên mà “xã hội không còn cảnh thái bình , nơi nơi máu chảy thành sông, xương chất như núi”, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn chí chờ thời, không chịu ra thi .Mãi sau này, khi nhà Mạc thay nhà Lê, tình hình  nước nhà ổn định tương đối, cụ thi đỗ trạng nguyên (1535), làm quan , ở tuổi 45. Ở triều được  tám năm, thấy gian thần hoành hành, chia bè phái , cụ dâng sớ vạch tội xin chém lộng thần, bèn thác bệnh cáo quan . Bài thơ chứa đựng quan niệm của cụ về danh lợi, về thái độ  sống, về bậc thang giá trị của người trí thức .
 II. ĐỌC HIỂU :
1. Nhà thơ thấy lòng thanh thản khi sống không bận rộn ,lo toan chuyện địa vị ,chức tước,bổng lộc , mà để lòng  hướng về những giá trị cao hơn

  - Ở hai câu đề , cùng nhan đề bài thơ, tác giả bày tỏ tâm trạng cơ bản nào, vấn đề chính của bài thơ là gì ? Câu thừa đề ông viết “ Thơ thẩn dâù ai vui thú nào” . “Thơ thẩn” là từ chìa khóa của bài thơ , gắn liền với từ Nhàn ở nhan đề. Đây là một từ láy  tượng hình,chỉ  dáng vẻ ung dung, thanh thản ,rỗi rãi , đi với động từ ( thơ thẩn dạo chơi ) hoặc  thay cho tính từ thanh thản, thoải mái ( cuộc  sống  , tâm hồn thanh thản, thoải mái). Tư thế này, trạng thái này hoàn toàn  đối lập với vế sau của câu thơ (dâù ai vui thú nào) . Kẻ mải mê vui thú đó là kẻ còn say mê danh lợi , và đằng sau đó là biết bao cám dỗ lẫn tội lỗi ở chốn quan trường . Nhưng lần ngược lên câu Phá đề,  tác giả đã cho ta hiểu cụ thể hơn về  hai từ Thơ thẩn Nhàn : Một mai,một cuốc, một cần câu . Mai , cuốc là những nông cụ quen cần thiết cho công việc cày xới đất đai, trồng trọt khoai lúa của người nông dân, con người lấy danh( nhà nông ) lợi (   khoai củ ). Còn cần câu, là một phương tiện mưu sinh , nhưng cũng là một cách thư giãn tao nhã, đối lập với tứ đổ tường ( rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút sách ) chốn cao sang quyền quý . Tìm rau củ để có cuộc sống vật chất, câu cá là nếp vui tinh thần.  Sống nhàn là sống không bận rộn ,lo toan chuyện địa vị ,chức tước,bổng lộc , mà để lòng  hướng về những giá trị cao hơn , một cuộc sống đơn giản, chỉ dừng lại những  nhu cầu vật chất tối thiểu, nhưng bảo vệ được phẩm giá, nhân cách, đạo đức một trí thức yêu nước,  mà chính tác giả đã viết trong một bài bát cú khác ( để rẻ công danh đổi lấy nhàn ). Như vậy, để trả lời cho câu hỏi đã nêu, đáp án là : Nhà thơ thấy lòng thanh thản khi sống không bận rộn ,lo toan chuyện địa vị ,chức tước,bổng lộc , mà để lòng  hướng về những giá trị cao hơn
2. .  Vui với lối sống không vướng bận lo toan là  như thế nào ? Đâu là giá trị cao hơn ? 
  - Bốn câu thơ ( thực luận ) chứa phần Giải quyết vấn đề ( biểu hiện cụ thể ) .  Vui với lối sống không vướng bận lo toan là  như thế nào ? Đâu là giá trị cao hơn ?  Ở hai câu thực, ta thấy một cuộc sống đúng nghĩa  với từ Nhàn.  Hai nhu cầu tối thiểu nhất của mọi con người ,  từ vua quan đến dân  hèn là “ăn no , tắm mát” . Với lối sống nhàn, ăn chỉ  cần những thức  trong tầm tay,do cuốc xới mà có ,  tùy thời vụ , không  đòi hỏi cao lương mỹ vị , biết chiều chuộng sức  khỏe, chứ không chiều  nhu cầu  vị giác . Tắm  hồ sen, tắm ao, có lợi cho sức khỏe thể chất lẫn tinh thần . “Ăn quá no, mặc quá ấm” là nguyên nhân nhiều căn bệnh, chính Hải Thượng lãn ông đã nhắc nhở .Sống đơn giản như thế ,bởi giá trị con người nằm ở chỗ biết ẩn mình, lùi bước  về nơi thanh tịnh khi cần , dù bị chê là dại . Hai câu  mang chất luận nhưng lại nằm ở vị trí thực như muốn khẳng định một thực tế , kẻ ngỡ khôn chưa hẳn là ngoan , và kẻ dại không thể là ngu xuẩn .Cái chốn lao xao nhiều khi là cạm bẫy, còn nơi vắng vẻ chính là con đường của một cuộc sống tốt lành .
3. Hướng hành động của tác giả
 -  Hai câu kết chính là hướng hành động của tác giả, nhân vật trữ tình .Ông đã “ nhìn phú quý tựa chiêm bao” ,xem giàu sang là điều ảo tưởng .Nhà tu hành có “ngũ giới” ( cấm sát sinh, trộm cắp, tà dâm ,dối trá, rượu chè )bởi tất cả do phú quý hay danh lợi đưa đến . Là một người xuất thân từ tầng lớp trí thức quan lại nhưng cả cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao giờ coi việc làm quan là lý tưởng cao nhất của sự nghiệp, bởi ông đã dồn mọi  triết lý sống vào hành động này . Lập công không được, ông lui về lập ngôn, dùng văn chương để bảo vệ đạo lý, khuyến thiện, trừng ác, giáo huấn, cảnh tỉnh người đời.
III.KẾT LUẬN.
.
Ông đã  được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các tập đoàn quyền lực phong kiến Mạc, -Trịnh, Nguyễn  đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với tiến trình của lịch sử dân tộc và từ đó tác động lớn tới quan hệ chính trị của cả khu vực Đông Nam Á trở về sau . Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh)
  ( Dalat 2015 )


No comments:

Post a Comment