I GIỚI THIỆU :
1. Thể
loại : Hành( ca hành ) là một thể thơ cổ,
có tính chất tự do phóng khoáng, không gò bó về số câu, số từ trong câu, cả
niêm luật, bằng trắc hay vần điệu . Về nội dung, ta thấy thể hành được dùng để bày tỏ
nỗi cảm kích giữa không khí bi tráng (chinh chiến, tiễn biệt) đề cập đến những vấn đề thiêng
liêng, những sự kiện mới lạ, bất ngờ hay những đồng cảm tạo
ấn tượng mạnh mẽ; chủ thể trữ tình thường kể lại sự việc với tâm trạng bức xúc,
có thể bày tỏ thái độ, chính kiến.
Có nhiều bài thơ nổi tiếng với thể Hành : Tỳ bà hành (Bạch Cư Dị, nhà
thơ Đường) Tống biệt hành (một
bài thơ mới Việt Nam của nhà thơ Thâm
Tâm)
2. Nhan đề của bài Sa hành đoản ca
(sa: cát, hành : đi, đoản ca : bài ca ngắn) Từ “đoản ca” ở đây còn có thể hiểu theo hình ảnh ẩn dụ là điều
bộc lộ không nhiều . Tác giả không đệm
thể loại như mọi bài ca hành khác, nhưng
lối gieo vần phóng túng, số câu và từ không gò bó, giọng điệu bi phẫn, chính là những đặc điểm
của thể thơ này . Tư tương và
hình thức này, cộng với một phương tiện
quen thuộc của thơ ca trung đại –chữ Hán- càng làm cho ý tưởng tác phẩm
thêm giá trị .
3 . Vài
nét về tác giả : Cao Bá Quát (1809-1855): người làng Phú Thị, huyện Gia
Lâm, tỉnh Bắc
Ninh; nay thuộc xã Phú
Thị, huyện Gia Lâm, Hà
Nội. Thuở nhỏ, Cao Bá Quát
sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông minh, chăm chỉ và văn
hay chữ tốt. Năm Tân Tỵ (1821), ông thi khảo hạch ở trường thi tỉnh Bắc Ninh lúc
đó mới 13 tuổi, nhưng thi Hương (lần đầu) không đỗ. Năm Tân Mão (1831) đời vua Minh Mạng,
ông thi Hương đỗ Á Nguyên (người đỗ bậc nhì ) tại
trường thi Hà Nội,
nhưng đến khi duyệt quyển, triều đình kiếm
cớ xếp ông xuống hạng cuối
cùng trong số 20 người đỗ cử nhân. Năm Nhâm Thìn (1832), Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Hội nhưng không đỗ. Sau đó, ông vào kinh
dự thi mấy lần nữa, nhưng lần nào cũng hỏng.Năm 1841, được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử, ông trở thành một vị quan nhà Nguyễn. Nhưng con đường công danh của ông đầy sóng gió , do ông quí trọng nhân tài, chuộng điều hay lẽ phải, không uốn mình vì tước nghiệp : bị giam cầm , bị buộc đi sứ, bị giáng chức, bị sa thải…
3. Bố cục : Bài thơ có 16 câu , nội dung gồm ba ý
rạch ròi : Thân phận tác giả trên đường lập thân – ông cay đắng trước thực trạng thối nát chốn quan
trường - thái độ phản kháng .
II . ĐỌC HIỂU :
1. Hành trình đi tìm danh lợi
của những nho sĩ chân chính vô cùng gian nan.
- Sáu
câu phần 1, nhà thơ làm động tác giới thiệu
không gian, thời gian của câu chuyện, từ đó nêu lên cảnh ngộ , tâm
trạng chính của mình.
Câu đầu tiên chính là phần giới thiệu
không gian . Câu thơ ngũ ngôn, tách làm hai vế, có hai cụm từ lặp
lại “trường sa ” , bãi cát dài . Hai cụm từ đi liền trong một câu thơ, khiến
người đọc có cảm giác tác giả đang tả
một khung cảnh giữa sa mạc với mênh mông cát trắng . Thế nhưng có một từ
chen vào giữa , từ “phục” .Phục
nghĩa là “một lần nữa ”. Bãi cát mênh mông hun hút ấy bỗng như càng mênh mông
hun hút, vì cứ đi thêm , đi thêm một lần nữa, lại chỉ thấy cát.Người đi như bị
vây bủa bởi cát , càng đi càng không tìm được lối ra . Càng bị vây bủa vì “nhất
bộ nhất hồi khước ”. Hồi là “trở về, quay lại”, khước nghĩa là lùi ra phía sau
.Không tiến thêm một bước nào cả .
Thông thường
những cư dân sống những vùng đồi
cát ven biển thường chạy chân trần trên
cát, phần vì cát bỏng chân, một phần quan trọng hơn, cát vướng chân rất khó đi
.
Sách giáo khoa chú thích rằng có thể bài thơ này được
hình thành từ những lần nhà thơ về kinh đô Huế để thi Hội, qua các tỉnh Quảng Bình,Quảng Trị ở miền
Trung đầy cát trắng . Ta biết ông “ học
tài nhưng thi phận : thi hỏng nhiều phen .Bối
cảnh thời gian hé mở .
Khó nhọc như thế, cho nên “khách tử lệ giao lạc”. Đây là bước tác giả nói về mình, giới thiệu nhân vật . Lại cách dùng từ đầy ấn tượng. “Khách tử” là
người phương xa , hoàn toàn lạc lõng, xa
lạ với vùng gió cát chập chùng này
.Dường như nhà thơ muốn nói hành trình
lao vào cát, đi lập công danh đối với ông chỉ là một “khách tử”. “Lệ lạc” là
nước mắt rơi . Lệ giao lạc, rơi nhiều lắm .Tại sao thế ? Tác giả biết giai thoại một tiên gia Hạ Hầu Ấn trong sách
Thần tiên thập dị, nổi danh là “mĩ thụy
ông”(ông lão ngủ say giấc), đi đường mắt
nhắm ngủ ngon lành mà không hề trượt vấp .Nhưng thi nhân của chúng ta không học
được (quân bất học) Nhà thơ không gọi mình là “khách tử ”mà đặt làm nhân
vật phân thân,một người thứ hai “quân” (anh, bạn, cách người đồng bối gọi nhau )nghĩa là lũ chúng mình , để bộc lộ
nỗi niềm . Nhưng cũngcó thể hiểu là có nhiều người cùng nhà thơ đang khó nhọc ,
bất lực giữa bãi cát danh lợi .Gian khổ, bế tắc, bất lực, họ đâm ra “oán hà
cùng !”Than trách đến bao giờ đây, mà cứ phải “đăng sơn thiệp thủy” cho đến khi “nhật nhập hành vị dĩ”( mặt trời
đã lặn , cứ đi mãi chưa thôi ), đây cũng là phần tác giả giới thiệu mốc thời gian trong cuộc hành trình trên cát .
Cả
một đoạn thơ 6 câu, hai cặp từ hiệp vần (khước /lạc; ông /cùng) đều là
những từ mang theo ý thơ quan trọng trong đoạn : cảnh ngộ đầy gian nan(cát quẩn
chân), uất ức( khóc nức nở) , bế tắc (chỉ biết vật vã than oán).Hành trình đi
tìm danh lợi của những nho sĩ chân
chính lẽ nào lại như thế !
Có lẽ Cao Bá Quát
cũng có quan niệm cống hiến một cách
trong sáng như Nguyễn Công Trứ (cùng sống dưới triều Nguyễn ). Nhưng có lẽ
ông rơi vào cảnh “ tài cao, phận thấp”
như ông cay đắng nhận diện .Phận ấy đẩy ông vào cảnh ngộ bi thương, bế tắc.
2 . Thực
sự trớ trêu dưới triều
Nguyễn .
Phần thứ
hai, tác giả dùng biện pháp tự sự rất sinh động . Nhà thơ phối hợp nhuần
nhuyễn thao tác kể chuyện, miêu tả và bày tỏ cảm xúc thật khéo léo . Từ đó, người đọc sẽ hiểu vì sao mà “sa hành” (đi trên cát)lại đầy ám ảnh thế .
- Hai
câu đầu, nhà thơ đưa ra một nhận định như một quy luật : Cổ lai danh lợi nhân ,
bôn tẩu lộ đồ trung (Xưa nay, những người danh lợi luôn chạy vạy mưu việc giữa đường đi ). Từ xưa đến nay, nghĩa là
những người tác giả gọi “danh lợi nhân”chiếm con số không nhỏ .Bản dịch nghĩa
và dịch thơ dùng cụm từ “hạng người danh lợi, phường danh lợi”hàm chứa sự miệt
thị, có lẽ chưa hợp lý , vì thái độ của tác giả qua nguyên bản “danh lợi nhân”
, những người say mê học tập, tôi rèn để
“tu thân, tề gia, trị quốc ,bình thiên hạ” rất đáng tôn trọng . Họ là những
hiền tài của đất nước .
Con đường họ
“bôn tẩu”( bản dịch dùng từ tất tả, có lẽ cũng chưa sát )có
“lộ đồ trung ”. Trung có nghĩa là ở giữa . Lộ và đồ đều mang chung một nội dung : con đường .Đường đi tìm lý tưởng cao
đẹp của những người yêu nước, thương dân rộng mở, thuận lợi vô cùng . Đó là con
đường mà hàng vạn nho sinh đã dấn bước, để tên tuổi họ được khắc lên các bia đá
trong văn miếu, trong sử sách nước nhà . Đó chính là con đường
mà từ hơn mấy thế kỷ qua , biết bao
nhiêu hiền tài đã có cơ hội cống
hiến trọn vẹn cho nước nhà .
- Thế nhưng thực tế ở xã hội
nhà thơ sống,nhữ ng năm nhà Nguyễn suy thoái, lại đầy
tương phản : người say chen chúc trong những quán rượu, còn người tỉnh lại rất
hiếm. Đường bằng phẳng, những thản lộ (mà xưa nay những nho sĩ chân chính vẫn đi)thì
mang mang(xa xăm , mờ mịt)còn
con đường đầy ghê sợ bọn người say
kia đi lại nhiều vô cùng !Tác giả , những “tỉnh giả”, những trí thức phong kiến đầy trách nhiệm, đang
phải đi trên “thản lộ mang mang”, chính là “sa hành”với biết bao khó nhọc, đắng
cay, uất hận .
Ngòi bút dựng lên cảnh đối lập trong xã
hội học tập Cao Bá Quát đang sống, được
chốt lại bằng một câu cảm thán : trường sa, trường sa, nại cừ hà ?Cứ cát chập chùng,chập chùng, làm gì bây giờ
?( trong bản dịch thơ, để việc gieo
vần, đặt câu được thuận, dịch giả đã
chuyển cụm từ nại cừ hà song hành với úy
lộ mang mang .Chức năng cụm từ này gắn với
trường sa, trường sa( Khi đọc,chúng ta nhắc nhở
học sinh chi tiết này )Thực sự bế tắc đến mức độ không thể nào chấp nhận được
nữa !Câu thơ này có thể xem là linh hồn
bài thơ , là tứ thơ quan trọng, như ban đầu đã nêu ( những bãi cát miền bắc
Trung bộ đã gợi tứ cho nhà thơ viết bài này)Làm sao, khi con đường công danh
lại bị biến tướng . Những rường cột
tương lai của nước nhà lại hầu như thiếu
tài lẫn đức, đang bước chen nhau trên những con đường đầy khủng khiếp . Văn
hiến nước nhà sẽ thế nào, khi lãnh thổ ấy, nhân dân ấy, mà giới cầm quyền lại
xấu xa như thế !Còn người có tài lại cứ
đổ lệ và gian khó với “trường sa phục trường sa”.
Ở
sáu câu được xem là tự sự này, tác giả gieo hai vần (ung và a ), tách khổ thơ
ra hai vế . Vế một tác giả khẳng định bản chất tốt đẹp của con đường thi
cử, Vế hai, tác giả xót xa cho thực trạng
này,và
phê phán bản chất suy thoái trong việc thi cử nhà Nguyễn, đi ngược lại đạo lý
truyền thống .. Có thể xem chức năng của vần ở đây rất tích cực, cụ thể .Giọng thơ không ai oán như phần một, mà đậm đặc
chất phê phán .Ta biết Cao bá Quát là người khẳng khái, bản lĩnh, hay gọi chính xác hơn,
rất sáng suốt và nhân ái, dù ông là kẻ chịu nhiều cảnh thất thế . Điều này lý
giải phần nào cho số phận gian truân của ông : bị giam cầm , bị buộc đi sứ, bị giáng chức,
bị sa thải
3 Người đeo đuổi danh lợi chân chính phải làm gì ?
Bốn câu thơ cuối có cấu trúc thật đặc biệt .Một loạt từ được láy lại : Bắc sơn chi bắc/ nam sơn chi
nam –ba vạn cấp, ba vạn điệp. Vây bủa nhà thơ là núi điệp trùng , sóng muôn đợt. Ba thanh trắc đi
liền hiệp vần , tạo nên âm thanh dữ dội, quyết liệt : ngươi(mày) còn đứng làm
gì trên bãi cát ?Nhưng ta hãy chú ý câu đầu khổ : Thính ngã nhất xướng cùng đồ
ca .Một câu mệnh lệnh .Hãy nghe ta (tôi)là kẻ đầu tiên( nhất )
xướng khúc “cùng đồ”. Bản dịch đã bỏ đi từ “nhất”. Cao Bá Quát có lẽ là một
mệnh quan triều Nguyễn đầu tiên rời bỏ chức tước triều đình ban, tìm đến với
nhân dân, chống lại nhà nước phong kiến .Sử sách chép rằng do ông không tiếc lời
châm biếm những sự xấu xa của nhà Nguyễn nên vua quan căm ghét.Năm 1852, ông
phải rời kinh đô, đi nhậm chức Giáo thụ phủ Quốc oai , tỉnh Sơn Tây .Những năm
này ở đây bị hạn hán, lại có nạn châu chấu, đồng lúa xác xơ, nhân dân khắp vùng
đói khổ .Họ nổi lên chống lại triều đình
vào năm 1854 . Cao Bá Quát tham gia . Do
chưa chuẩn bị chu đáo, kế hoạch khởi nghĩa bị dập tắt chỉ sau mấy tháng. Cao
Bá Quát hy sinh (có thuyết nói ông bị
bắt sống và bị hành hình ).
III. KẾT LUẬN
Khúc “sa
hành”đã kết thúc như thế , đầy bi tráng , nhưng đã phản ảnh hai điều : sự mục
ruỗng của chế độ nhà Nguyễn thời vua Tự Đức, đó là nguyên cớ thực dân Pháp đến
đánh chiếm nước ta . Đồng thời ,chúng ta luôn tự hào có những tấm lòng trọn đời
thiết tha với dân, với nước, và Cao Bá
Nếu triết lý của Nguyễn Công Trứ
đầy lạc quan : cống hiến, hửơng thụ hết mình, bởi ông trọn niềm thủy chung trong nghĩa vua tôi.
Nhưng với Cao Bá Quát, ông không được
cống hiến trọn vẹn như bậc đàn anh,mà
theo ông , do “ phận thấp” ông đã đi đến với nhân dân, thể hiện lý tưởng cống
hiến theo một lối tích cực khác.
Câu
hỏi:
1. Bạn hiểu thế nào về thể Hành ?
2. Nêu
vài nhận định về Cao Bá Quát .
3. Tâm
trạng của tác giả khi viết bài thơ? Ông đã dùng lối ngôn từ như thế nào để bộc bạch nỗi lòng ?
4. Lý
giải vì sao tác giả mang tâm trạng đó ? Ngòi bút tương phản đậm chất phê phán ở
đây như thế nào ?
Đánh giá
về hành động cuối cùng của ông ?
No comments:
Post a Comment