THƠ ĐƯỜNG LUẬT .
I TÌM HIỂU CHUNG :
1. Định nghĩa :
.
Thơ Đường
luật là thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn được đặt ra từ đời
Đường ở Trung Quốc . Thơ Đường luật có ba dạng chính : thơ bát cú (mỗi bài tám
câu) ,thơ tứ tuyệt(mỗi bài bốn câu ) và thơ bài luật (dạng kéo dài của thơ
Đường luật ) , trong đó, thơ bát cú, nhất là thất ngôn bát cú (thơ 8 câu, 7
chữ) được coi là dạng cơ bản,vì từ nó có thể suy ra tất cả các dạng khác của
thơ Đường luật .
2. Đặc điểm :
Trong các thể thơ của Việt Nam từ trước đến nay, thể thơ Đường Luật là một dạng thơ được xem
là độc đáo . Cả bài thơ chỉ vỏn vẹn không quá sáu mươi từ, bố cục chặt chẽ,
niêm luật rõ ràng , kết cấu có hệ thống,
mỗi câu, mỗi từ đều mang một chức năng cụ thể .Thế nhưng, để cảm thụ trọn vẹn
một bài thơ Đường Luật đôi khi thầy trò vẫn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt những
bài thơ được viết ngoài chữ Nôm, là chữ Hán .
II NHỮNG ĐIỂM
CẦN LƯU Ý
1.
Bố cụcvà lập luận
a. Thơ Đường
luật thất ngôn bát cú :
: Một bài thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần : Đề, thực ,luận,
kết .
- Trong Đề, câu 1 được gọi là phá
đề với nhiệm mở ý của nhan đề bài thơ ,câu 2 gọi là thừa đề, có chức năng tiếp ý của Phá đề để chuyển vào thân bài .
Do đó, cách thâm nhập bài thơ một cách hiệu
quả, đó là hãy bắt đầu từ câu thừa đề
, tìm được nhãn tự ( từ chìa khóa ) bao
giờ cũng nằm trong câu này, đặc biệt những từ đầu câu thơ . Từ “nhãn tự”, ta lần lên câu phá đề, rồi xâu
chuỗi với nhan đề, thế là chúng ta đã mở
được cánh cửa đi vào bước tháo dỡ ý tứ bài
thơ .
Nội dung tư
tưởng trong thơ Đường luật, dù là thơ trữ tình, luôn mang không khí nghị luận xã hội ( tình yêu nước, trách nhiệm với nhân
dân, nhân tình thế thái, hạnh phúc trong hôn nhân, thân phận kẻ phong vận giữa
đời …), cho nên phần Đề được xem là phần Nêu vấn đề . Hai câu hỏi chúng ta dành cho học sinh ( đặt trong một câu hỏi lớn
) là : Tác giả đặt ra vấn đề gì, cảm xúc gì ở đây? ( để được giải quyết trong
phần thân bài ). Vấn đề này đã được nhà
thơ cắt nghĩa như thế nào ?
- Trong Kết (
hai câu cuối) mang trọng trách kết thúc bài thơ, nhưng mở ra một hướng mới :
tác giả,chúng ta , những người cùng đọc bài thơ, phải làm gì ?Ở đây, hãy chú ý
câu thứ tám, câu cuối cùng của bài thơ . Có lẽ khi đặt bút làm thơ, các thi nhân thời
trung đại nước ta đã hình dung sự gắn bó giữa hai câu thứ hai và tám ( hoặc hai và bốn trong những bài thất ngôn, ngũ ngôn tứ tuyệt)
- Trong
Thực,Luận , giữ vai trò Giải quyết vấn đề của một bài nghị luận xã hội , tác
giả sẽ đi từ khâu tả thực vấn đề ( thực
) sau đó bước qua bàn bạc ( luận ) .Thơ tứ tuyệt không coi trọng phần mà lắm khi chúng ta dồn hết thời gian để giải
mã . Với nội dung một bài văn nghị luận, thì
ở đây được xem là “ Biểu hiện cụ thể” ( mở rộng vấn đề, cảm xúc chính
nêu ở phần Đề )Phần này có chức năng mở rộng,thuyết phục người xem tin tưởng ,
đồng tình với vấn đề, cảm xúc chính đã
được tác giả đưa ra bởi mỗi bài thơ chứa
một mục đích nào đó : bày tỏ quan niệm, kêu gọi, phê phán, tạo mối quan hệ,
giãi bày một tâm tư .
Ở đây,
người viết phải đúc kết mọi ý tưởng
trong hai cặp thơ song thất, đối ý đối
từ , cả âm điệu, nhạc điệu rất chặt chẽ . Bám cách đối, vị trí cặp đối ( thực
hay luận ) thì chúng ta sẽ hiểu được ý
đồ tác giả .
Về kết
câu thơ Đường luật ( kết cấu là đi sâu vào việc
tổ chức nội dung ,ý tưởng bài thơ, để làm sáng tỏ chủ đề tư tưởng,còn bố
cục là việc sắp xếp hệ thống câu làm sao
có cân đối nhiều hơn là hướng về nội
dung ), câu thừa đề (cùng với câu cuối trong phần Kết ) được xem là linh hồn của một
bài thơ Đường luật . Do đặc điểm gò bó, lại có nhiều qui luật chặt chẽ về hình
thức, nên việc chọn từ, đặt ở đâu là vô cùng quan trọng . Trong câu thơ trọng
tâm này, nhiều nhà thơ còn dồn hết cho
tứ thơ ,tình cảm của mình vào một vài từ gọi là “nhãn tự”.
b. Thơ thất ngôn tứ tuyệt : Bố cục gồm hai phần . Nếu các phần không có
chứa cặp đối, chúng ta biết rằng
phần chọn là đề và kết . Nếu có một cặp
đối và một cặp bình thường, đó là luận
và kết .Ngược lại, khi ta bắt gặp một cặp bình thường, theo sau là cặp đối, ta
có đề và thực . Dạng đầu tiên phổ biến nhất . Với bố cục đề- kết chúng ta sẽ có
hướng kết cấu : Câu phá đề đã nêu lên ý tưởng gì
của đề bài ? Câu thừa đề chứa nội dung gì để chuyển vào thân bài ? Hay
cụ thể hơn ,tác giả nêu lên vấn đề gì trong bài thơ(đề ) , và tác giả đưa ra
hướng hành động như thế nào (kết ) ? Ta biết trong một bài thơ Đường luật , bát
cú và tứ tuyệt ( dạng chọn đề kết ), trọng tâm bài thơ dồn vào câu
thơ thứ hai và cuối . Như
vậy, thơ tứ tuyệt có
khác gì về bố cục,kết cấu với thơ bát
cú, thì chúng ta tạm hiểu : đó là một cách “rút gọn” thơ bát cú . Nắm được bố
cục như thế, chúng ta dễ xác định kết cấu bài
thơ và khai thác hợp lý các giá trị của tác phẩm
2 .Từ ngữ dùng trong các bài thơ Đường Luật rất
cô đọng, hình ảnh , giàu tính nhạc
.
-
Hãy bắt đầu tìm nhãn tự ( keywords) trong câu thứ hai, thừa đề . Làm sao để xác định
đúng ? Hãy đọc từng âm tiết một , đọc to ,trọn bài và câu thơ tám chữ này, thì
ta sẽ phát hiện ra.
Chẳng
hạn với bài “ Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão”,
nhãn tự là “ tam quân tỳ hổ” .Có
ba tầng nghĩa ở đây . Tầng thứ nhất, đó là binh sĩ trong đội quân vốn được lịch
sử đánh giá là hùng mạnh của đời Trần . Theo nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng,
thanh niên Đại Việt ngày ấy có tầm vóc
chỉ dưới 1m50, nhưng quân trang,vũ khí
họ mang trên mình nặng đến 50 ký ,
cho nên sức mạnh của họ phải xem như ngang hàng với cọp báo . Tầng thứ hai, tác
giả đề cao đội quân rất hùng hậu,có tổ chức, có trui rèn qua binh lửa, giàu
kinh nghiệm trận mạc, bách chiến bách thắng của nhà Trần , chỉ có thể sánh với cọp dữ . Tầng thứ ba,
chính là tác giả muốn kín đáo đề cao những thành tích vẻ vang của quân nhà Trần
và riêng bản thân . Sử sách từng ghi nhận vô số cống hiến lớn lao của Phạm Ngũ
Lão vì nhà Trần, và ông đã được trọng
thưởng xứng đáng . Nếu chọn tầng nghĩa này
, nối với câu cuối , khi ông thấy mình còn thua kém Gia Cát Lượng ,nhà
chính trị, nhà quân sự kiệt xuất của Trung Quốc, là nhà ngoại giao cự phách ,
nhà phát minh tài năng , là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc
nhất trong mọi thời đại .Danh tiếng lẫy
lừng như thế , nhưng Vũ hầu luôn
luôn đặt sự hưng vong của quốc gia lên trên danh lợi . Có lẽ hai vẻ đẹp rạng
ngời trong tài năng và nhân cách của Vũ Hầu đã khiến Phạm Ngũ Lão nghiêng mình
ngưỡng mộ, xem đây là tấm gương để nỗ lực không ngừng .
-
Trong câu kết ( thứ tư hay thứ tám ) , cần nghiền ngẫm, để hiểu được hướng hành động tác giả đưa ra .Ở bài “Độc Tiểu
Thanh ký” , ta đọc câu “ thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?” rất lo-gic khi chúng
ta nối với nhãn tự ở câu thứ hai “ độc điếu” . Chỉ một mình Nguyễn Du đến phúng
điếu, xót xa, rơi lệ cho số phận, tài
năng hẩm hiu của Tiểu Thanh, khi nàng đã
ra đi mấy thế kỷ rồi, thì mấy thế kỷ sau, Nguyễn Du lo lắng, có chút mong mỏi,
có người đồng cảm và thấu hiểu với những con người như Tiểu Thanh và bản
thân ông . Dồn lại là từ “ khấp”.
-
Yếu tố
tiếp theo cần tôn trọng khi tìm hiểu một bài thơ Đường luật, đặc biệt với những tác phẩm được viết bằng chữ Hán, cần bán từ nguyên gốc . Chẳng hạn bài Độc
Tiểu Thanh ký .
Trong bài thơ này, ta gặp hai chữ “độc” . Độc
ở nhan đề có nghĩa là “ đọc” giữ vai trò
một động từ , còn “độc” ở câu thơ thứ hai , đi liền với từ “ điếu”, thì
“độc” lại có nghĩa là “chỉ, một mình” .
Từ “ độc điếu” chính là linh hồn của bài thơ này . Lấy câu
thừa đề kết nối với câu cuối trong bài thơ, tạo thành một ý tưởng thống nhất : mình ta khóc thương nàng ( bởi ta xót xa cho nhan sắc , tài năng của nàng bị
chà đạp và hủy hoại bởi cái ác . Ta càng đau đớn, vì từ xưa đến nay, như một qui luật, những ai mang
phong vận ấy cũng đều phải cam
chịu bao nỗi oan uổng, oán hận . Tiểu
Thanh, hay Nguyễn Du , hay bất cứ ai tài năng, gia thế , học rộng,giỏi văn
chương, đều khó thắng được định mệnh này )thì
biết có ai rỏ lệ đồng cảm với ta
không ?
Nguyễn Du lên
tiếng oán thương cho bao tài hoa và bạc
mệnh do người đời gây nên, đồng thời nhà
thơ muốn gióng hồi chuông cảnh tỉnh về
một xã hội chạy theo danh lợi,chà đạp
những giá trị cao quý nhất của cuộc sống , đó là văn chương và kẻ yêu
thi phú .
Câu thừa đề
với một vài nhãn tự là xương sống của
các bài thơ Đường luật thất
ngôn bát cú . Có nhiều
bài chúng ta chưa thể cắt nghĩa được nhan đề, lúng túng với câu phá đề,
thì hãy bám lấy nhãn tự và câu thừa đề
này . Phân tích kỹ từng từ , sau đó đi
ngược lên Phá đề và nhan đề, thế là chúng ta bắt đầu có chìa khóa để mở cổng
dẫn vào nội dung tư tưởng, những giá trị nghệ thuật của bài thơ .
3. Các cặp câu thực, luận :
Hai cặp Thực luận là những cặp đối rất
chặt chẽ . Bài thơ giàu nhạc điệu, hình ảnh,
ngôn ngữ cô đọng nằm ở đây, phần thân bài .
Với bài “Nhàn”
của Nguyễn Bỉnh Khiêm , tác giả viết
Bốn câu thơ thực luận hay phần Giải quyết vấn đề ( còn gọi là Biểu hiện cụ thể ), trả lời cho các câu hỏi . Vui với
lối sống không vướng bận lo toan là như
thế nào ? Đâu là giá trị cao hơn ? Ở
hai câu luận, ta thấy một cuộc sống đúng nghĩa
với từ Nhàn.
Hai
nhu cầu tối thiểu nhất của mọi con người ,
từ vua quan đến dân hèn là “ăn no
, tắm mát” . Với lối sống nhàn, ăn chỉ
cần những thức trong tầm tay,do
cuốc xới mà có , tùy thời vụ ,
không đòi hỏi cao lương mỹ vị , biết
chiều chuộng sức khỏe, chứ không chiều nhu cầu
vị giác . Tắm hồ sen, tắm ao, có
lợi cho sức khỏe thể chất lẫn tinh thần . “Ăn quá no, mặc quá ấm” là nguyên
nhân nhiều căn bệnh, chính Hải Thượng lãn ông đã nhắc nhở .Sống đơn giản như
thế ,bởi giá trị con người nằm ở chỗ biết ẩn mình, lùi bước về nơi thanh tịnh khi cần , dù bị chê là dại
.
Hai
câu mang chất luận nhưng lại nằm ở vị trí thực như muốn khẳng định một thực tế , kẻ ngỡ khôn chưa hẳn là
ngoan , và kẻ dại không thể là ngu xuẩn .Cái chốn lao xao nhiều khi là cạm bẫy,
còn nơi vắng vẻ chính là con đường của một cuộc sống tốt lành .
: Hai cặp Thực
luận là những cặp đối rất chặt chẽ . Bài
thơ giàu nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ
cô đọng nằm ở đây, phần thân bài
4 Đối :Để thuyết phục người đọc đồng tình để cùng chọn một hướng hành động tích cực, hiệu quả nhất, thì rất cần phần
Giải quyết vấn đề, tức là bốn câu thực và luận . Vì sao cần đối và đối như thế
nào, thì đó là luật chung của thơ Đường luật,có gốc gác từ thơ Đường . Chúng ta
chú ý sự sáng tạo trong đối và tác dụng của các cặp đối này .Cách tạo dựng hai cặp
đối đặc sắc, ý nghĩa có lẽ là đối trong bài “Độc Tiểu Thanh ký ”của Nguyễn Du
.Trong hai câu thực, tác giả “đối” thế nào ?
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh
lụy phần dư
Tạm dịch : Son phấn có tinh khí nên sau khi
chết vẫn còn dính dáng đến
Văn chương không phải do
trời định, mà phần dư vẫn bó buộc người .
Ở đây ta
thấy có những từ đối rất sáng tạo. “Phần
dư” (phần : đốt cháy,dư : thừa ra) “tử hậu” (sau khi chết ) , có thể hiểu
là phải chết hay bị đốt vẫn còn dấu vết . Hai vế có ý nghĩa tương đương với
nhau .Hữu thần và vô mệnh lại đối lập
nhau . Hữu thần có thể hiểu rằng có linh hồn, tinh khí; vô mệnh là không có số
phận, không chịu cảnh trời định, vì đó là thơ ca .
Và cặp từ “liên lụy”tách rời ra (liên có nghĩa là nối
liền nhau ; lụy : có dính dáng tới, gây bó buộc với ai đó ) Gộp lại ,bản thân
trong tiếng Hán Việt, từ liên lụy mang nghĩa : vì người này mà gây rắc rối đến
người khác .
Cả hai câu thực , với dụng ý
kể lại sự kiện có thật , có thể
hiểu : Có nhan sắc,có tài thơ văn, dù sắc đẹp đầy tinh khí, còn thơ không có số trời định,
nhưng bị đốt, phải chết, vẫn chịu nhiều liên lụy , rắc rối . Tóm lại, Nguyễn Du
muốn nói Tiểu Thanh xinh đẹp , nhạy cảm,
bị đẩy đến cảnh chết trẻ và thơ cô , lẽ ra được trân trọng,thì bị đốt,nên đến
nay vẫn gây xúc động cho người đến viếng. Tác giả cảm thương trước nhan sắc,thơ
văn Tiểu Thanh bị chà đạp đầy oan uổng .
Tác giả có chút cay đắng trước nỗi oan mà Tiểu Thanh phải nhận .
Đây là cách đối bổ sung, vì đứng độc lập sẽ
không mang ý nghĩa trọn vẹn .
Qua hai câu luận ( tác giả bày tỏ thái độ) ,
cách đối cũng ấn tượng
Cổ kim/ hận sự /
thiên nan vấn
Phong vận/ kỳ oan / ngã tự cư .
Thiên nan vấn nghĩa từng từ là “trời khó hỏi”, có thể hiểu là “ đừng nên hỏi trời, vì hỏi
trời khó lắm” Phong vận (phong :phẩm
chất mỗi con người; vận: nét tao nhã bên
ngoài )là dáng dấp và khả năng mỗi người
. Cũng đồng nghĩa với kẻ có gia thế ,
tài năng .
Kỳ oan ( nỗi oan lạ lùng ) chính là
sự oan uổng , bị kết án dù vô
tội.
Tạm dịch:
Trời không trả lời bao tiếng kêu
oán trong quãng thời gian xưa nay Ta tự
đành mang oan uổng khó hiểu
trong hình hài , cốt cách con người.
Hai câu đối nhưng bổ sung để tạo
thành một : Từ xưa đến nay,
như một qui luật, những ai có phong vận
cũng đều phải cam chịu bao nỗi oan uổng,
oán hận . Tiểu Thanh, hay Nguyễn Du , hay bất cứ ai tài năng, gia thế , đều khó
thắng được định mệnh này .
“Phong vận kỳ oan ngã tự cư” mà Nguyễn Du thấm
thía là gì ? Nguyễn Du từng được người
đời khen ngợi học rộng giỏi thơ. Đó chính là phong vận
.Bài thơ “Độc
Tiểu Thanh ký “được rút từ "Thanh Hiên thi tập". Có nhiều nhận đinh thì thi tập này được ông
viết vào những năm trước 1802, trước khi Nguyễn Du ra làm quan cho triều Nguyễn,
để nói lên tình cảnh, tâm sự của mình trong hoàn cảnh lênh đênh, lưu lạc hoặc
trong thời gian ẩn náu ở quê nhà, lúc gia đình đã sa sút theo đà sụp đổ của chế
độ Lê - Trịnh. Nguyễn Du sinh năm 1765. Con số
này cùng với tiểu sử cho biết ông là
người của một dòng họ từng làm việc và hưởng bổng lộc của nhà Lê , là những
trung thần. Trong một thời gian khá dài, từ khi Tây Sơn ra Bắc hà (1786) cho
đến khi Tây Sơn thất bại (1802), rõ ràng Nguyễn Du có tính việc phục quốc (phù
Lê). Nhưng những chiến thắng của Quang Trung năm 1789 đã làm cho nhiều người có
tư tưởng chống Tây Sơn khiếp đảm. Do đó, Nguyễn Du bi quan, chán nản.. Điều hiển nhiên là niềm tưởng nhớ nhà Lê, nỗi uất ức của
người dồn phải dồn vào thế hàng thần. Một kẻ phong vận nhưng không được thỏa chí, phải chấp nhận bi
kịch, đó chính là “ kỳ oan ngã tự cư”. Soi chiếu với thân phận Tiểu Thanh và biết bao giai nhân
tài tử ông đã gặp, tác giả
chiêm niệm và đưa ra một nhận định đầy chua xót .Hai câu này nằm trong
phần Luận, chứa đựng thái độ đánh giá, ý
kiến bàn bạc của riêng cá nhân nhà thơ, đôi khi trở nên phương châm , bài học
triết lý .
5. Vần : Vần là một kỹ xảo trong thơ Đường luật .Có hai loại là vần trắc và vần bằng .Nhiều nhà thơ rất có ý thức về việc gieo vần . Ở Nguyễn Khuyến , vần “eo” trong bài thơ Thu điếu là một nét độc đáo và dường như có dụng ý .Tác giả muốn khép mình lại trước thời cuộc đang “eo sèo” vì danh lợi , được thua,đúng sai,mất còn . Về vần và bài Thu ẩm lại khiến cho người đọc có cảm giác nặng nề, ngột ngạt ,như “ ba gian nhà cỏ thấp lè tè”, như nhập nhèm cảnh “ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe ” và mủi lòng trước cảnh ngộ phải từ quan để giữ khí tiết nhà nho của thi sĩ mùa thu “mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” .Hiếm khi chúng ta gặp những bài thơ Đường luật có vần trắc . Nguyễn Khuyến đã để lại cho chúng ta mấy bài như thế . Một bài vẫn mang không khí buồn bã,khắc khoải . Tháng tư đầu mùa hạ, Tiết trời thật oi ả . Tiếng dế kêu thiết tha , Đàn muỗi bay lả tả .Nỗi niềm tỏ cùng ai .Lòng này buồn cả dạ .Biếng nhắp năm canh chày, gà sớm đã giục giã . Nhưng một bài khác lại vui tươi,rộn ràng,nhờ cách gieo vần có một không hai ở nhà thơ : vần ết . Năm ngoái năm kia đói miệng chết .Năm nay phong lưu đã ra phết ..Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,ngoài cửa bi bô rủ chung thịt .Ta ước gì được mãi thế này, Hễ hết tết thời còn lại tết . Vần ết chứa một niềm vui đầy phấn khích,như muốn hét lên, nhãy cẩng lên sung sướng trước không khí tết tràn ngập khắp nơi .
6 Trung thi hữu họa :
Rất nhiều nhà thơ trung đại
tận dụng một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc của thơ Đường trong quá trình sáng tác
để gửi gắm nỗi lòng : mượn cảnh ngụ tình . Đọc Thu điếu của Nguyễn
Khuyến , hay Bảo kính cảnh giới bài 46 của Nguyễn Trãi , ta thấy rõ điều này .
Một nhà thơ Đường nổi tiếng với đánh giá của người đương thời và sau này là
Vương Duy “trong thơ luôn có tranh”Nhà thơ có khi mang cả một bức tranh phong
cảnh vào trọn bài thơ . Bức tranh có bố cục rất cân đối. Từ điểm nhìn tạo bố
cục tranh,ta có thể xác định vị trí nhà
thơ đang đứng, hoặc ngồi, để cảm nhận cảnh và sáng tác thi phẩm của mình .
Ở bài Thu điếu, ta thấy Nguyễn Khuyến tả
cảnh thu rất đẹp. Nhà thơ ngồi trên một chiếc thuyền câu rất nhỏ, nhìn ngang
tầm mắt thấy nước trong vô cùng, hơi nước mùa thu phả vào mặt ,có cảm giác lạnh
và chút cô đơn,lạc lõng (lạnh lẽo) .Nhìn
xuống dưới chân ngồi,bên ngoài thuyền câu, mặt nước gợn sóng lăn trong làn gió thu nhẹ nhàng. Nhìn lên thấy lá
vàng ,nhỏ và khô ,rơi nhanh trong gió. Từ đó, theo quán tính, tác giả đưa mắt
nhìn lên cao : mây lơ lửng trôi qua giữa bầu trời thu xanh ngắt . Không thấy gì nữa, đã hút tầm mắt
, nhà thơ quay đầu nhìn xung quanh , bắt
gặp con đường nhỏ quanh co , vắng vẻ dẫn
vào nhà,hai bên trồng đầy trúc . Tác giả
thả hồn vào cảnh, say sưa ngắm, tận hưởng tất cả cung bậc thu , từ không
gian trong lành, yên vắng, đến bầu trời thu cao rộng, sáng tươi, đến làn gió
thu mơn man, đến chiếc lá thu bé xíu, khô cong,rơi nhanh , đến mặt nước thu
lành lạnh, đến khóm trúc trước cổng vắng người, thấm thía nỗi cô đơn lạc lõng và nâng niu tất
cả .Thế mà gọi là câu cá sao ?Chỉ là để thấm
thía nỗi cô đơn lạc lõng và nâng niu tất cả. Thế thôi !
Mộ là bài thơ tứ tuyệt,được trích từ tập
thơ tù viết bằng chữ Hán Ngục trung nhật
ký của Bác Hồ ,là một bài thơ cắt ra , có thể gọi như thế , từ một bài
Đường luật thất ngôn bát cú , theo dạng
đề, kết . Bốn câu thôi nhưng cũng đủ để một bức tranh chiều buông ở một miền sơn cước . Không ai
hình dung đây là một bài thơ của một tù nhân trên đường đi đày, và ngày đã tàn
mà chưa biết dừng chân nơi đâu . Bài thơ bắt đầu với hình ảnh một dáng chim trời mệt mỏi đang nghiêng cánh trở về rừng tìm chỗ nghỉ .Đây là hình ảnh
ngang tầm mắt, có thể hiểu người ngắm cảnh đang đứng và đi .Nhìn lên cao , một
vài đám mây trôi dạt lang thang .Nguyên
bản là cô vân mạn mạn độ thiên không .Bây
giờ thì tác giả ngước mắt lên cao, nhìn theo một đám mây mạn mạn (mây khá rộng,
không giới hạn hình dạng vì cứ trôi dạt
đi ), tức là người tù đang chuyển dịch cùng với đám mây trôi theo trên đầu. Thi
sĩ bị đày ải nơi đất khách quê người, không bạn bè người thân,thì bây giờ có
một đám mây lẻ bạn đang đồng hành trên cao kia .Nhìn xuống, tác giả tình cờ bắt
gặp hình ảnh một thiếu nữ miền núi từ trong một ngôi nhà nào đó bên đường, đang
xay ngô .Không có hình ảnh nào đẹp hơn cảnh một thiếu nữ khỏe khoắn đang lao
động, đặc biệt xay ngô,vì cử chỉ uyển chuyển, dáng mềm mại, phô tất cả nét trẻ
trung tươi tắn của tuổi tròn trăng .Và nhìn quanh, ồ , bếp lửa cơm chiều đã rực
hồng . Bầu trời đã tối, nên bếp lửa nhỏ từ ngôi nhà bỗng trở nên cháy đỏ,ấm áp
,cả sự no đủ, bao trùm lấy không gian . Bài thơ đã dùng ngôn ngữ để vẽ lên một
bức tranh lúc chạng vạng ở miền sơn
cước. Tranh có bố cục rất cân đối, từng chi tiết được quan sát tỉ mỉ ( chim mỏi,
mây lẻ loi, bếp hồng, sơn thôn thiếu nữ
). Người tù cô độc, nhưng xung quanh ăm ắp sự sống,tình người. Đám mây
cứ theo bước chân người tù, như một bạn đồng hành , như báo trước rồi ngày tự
do sẽ đến .Và trong tăm tối của kiếp tù đày, tác giả đã có cảm giác sự sống,
tình người và ánh sáng tràn ngập khắp
nơi .
Trong bài thơ “Bảo kính cảnh giới ,số 43”,
Nguyễn Trãi đã vẽ lại một bức tranh ngày
hè rất sống động .Bức tranh ấy tập trung trong hai cặp thực và luận của bài thơ
Đường luật thất ngôn bát . Cảnh ở đây không có chiều cao,chiều rộng,mà chỉ có
cảnh gần và cảnh xa . Thế nhưng,cả không gian làng quê vào ngày hè thật rộn rã,
tưng bừng trong ấm no,hạnh phúc .Gần là cảnh hoa lựu nở đỏ rực bên hiên,và
ngoài ao sen bắt đầu kết gương ( vì đã qua mùa hoa nở, hương sen thơm không còn
)xa là âm thanh đông vui của bến cá về, và tiếng ve inh ỏi dưới nắng hạ trong
những tòa nhà đẹp .Vậy còn cây “hòe lục”
ở câu phá đề . Thực ra, có thể hiểu , cây mang ý nghĩa ẩn dụ nhiều hơn là tả
thực . Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
. Đây là câu thơ linh hồn của bài thơ .
Nhãn tự là “đùn đùn ”,nghĩa là phát triển ở mức cao nhất . Hòe lục hàm ý cuộc sống vật chất và tinh
thần. Nhưng dù chúng ta hiểu ở khía cạnh tả thực cũng hợp lý. Cuộc sống vật chất đạt mức cao nhất nên “phun” và “tiễn” Cuộc sống tinh thần phát
triển ở mức cao nhất cho nên “lao xao,
dắng dỏi ”. Vì vậy mà tác giả khao khác có thể tấu lên một cung đàn để ca mừng rằng khắp nơi nhân dân đều được no ấm
.Bài thơ ra đời sau cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh đầy gian khổ, và
đời nhà Lê thái bình thịnh trị hiển hiện khắp nơi. Với tấm lòng một vị
quan cả một đời vì dân, ta hiểu được
niềm vui cất thành thơ của Nguyễn Trãi .
Vần là một kỹ xảo trong thơ Đường luật .Có hai loại là vần trắc và vần
bằng .Nhiều nhà thơ rất có ý thức về việc gieo vần . Ở Nguyễn Khuyến , vần “eo”
trong bài thơ Thu điếu là một nét độc
đáo và dường như có dụng ý .Tác giả muốn
khép mình lại trước thời cuộc đang “eo sèo” vì danh lợi , được thua,đúng
sai,mất còn . Về vần và bài Thu ẩm
lại khiến cho người đọc có cảm giác nặng nề, ngột ngạt ,như “ ba gian nhà cỏ thấp lè tè”, như nhập nhèm
cảnh “ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe ” và mủi lòng trước cảnh ngộ phải từ quan để
giữ khí tiết nhà nho của thi sĩ mùa thu “mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” .Hiếm
khi chúng ta gặp những bài thơ Đường luật có vần trắc . Nguyễn Khuyến đã để lại
cho chúng ta mấy bài như thế . Một bài vẫn mang không khí buồn bã,khắc khoải . Tháng tư đầu mùa hạ,
Tiết trời thật oi ả . Tiếng dế kêu thiết tha ,
Đàn muỗi bay lả tả .Nỗi niềm tỏ cùng ai .Lòng này buồn cả dạ .Biếng nhắp
năm canh chày, gà sớm đã giục giã . Nhưng một bài khác lại vui tươi,rộn
ràng,nhờ cách gieo vần có một không hai ở nhà thơ : vần ết . Năm ngoái năm kia
đói miệng chết .Năm nay phong lưu đã ra phết ..Trong nhà rộn rịp gói bánh
chưng,ngoài cửa bi bô rủ chung thịt .Ta ước gì được mãi thế này, Hễ hết tết
thời còn lại tết . Vần ết chứa một
niềm vui đầy phấn khích,như muốn hét lên, nhãy cẩng lên sung sướng trước không
khí tết tràn ngập khắp nơi .
7Nhịp điệu :
-
Nhạc
điệu : Sự liên kết vần tạo nên âm điệu
cho câu thơ ( trầm bổng, cao thấp,to nhỏ )
Nguyên tắc chung là tùy vần bằng
hay trắc( cuối câu thứ nhất ,hai và các câu chẵn ) mà nhà thơ buộc phải phối
thanh theo qui luật. Bài thơ vần bằng, nhưng luật thì dựa vào âm thanh của từ hai câu 1 và câu 8 Nếu hai từ đó là thanh trắc, theo nguyên
tắc “ nhất tam ngũ bất luận” (các âm tiết 1,3,5 tùy tiện ) và “ nhị tứ lục phân minh” (
các âm tiết 2,4,6 phải tôn trọng qui luật
). Vậy, chữ thứ hai là trắc, thì tư là bằng và sáu là trắc , Tuy nhiên
cũng có ngoại lệ. Nếu câu thơ với nhiều thanh bằng, nội dung mang theo sự êm ả, ngược lại nếu
nhiều thanh trắc, nội dung có sự gay cấn, song gió .
Trong bài Hoàng hạc lâu, nhà thơ Thôi Hiệu đã viết : Hoàng hạc
nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du. Ta thấy câu 1 chỉ có một âm tiết mang thanh bằng, câu thứ hai chỉ có hai âm tiết thanh trắc. Điều đó, nội dung chứa một ẩn ý : Câu thơ thứ nhất có nghĩa Hoàng Hạc lâu gắn liền với hình ảnh thần tiên thơ mộng giờ chỉ còn là ảo ảnh hư vô. Tác giả nhớ về ngày xưa để nuối tiếc cho những gì đã qua, đã mất của cuộc đời.-Câu thơ thứ hai sử dụng tới 5/7 thanh bằng, nhất là ba thanh phù bình (không du du) ở cuối câu đã gợi tả rất thành công cái cảm giác hẫng hụt và tiếc nuối. Đồng thời có khả năng gợi hình tượng, thể hiện vẻ ngưng trệ như không muốn trôi đi của những đám mây. Mặc dù nói đến sự tích lầu Hoàng Hạc nhưng nổi bật lên trên câu chuyện ấy là tâm trạng nuối tiếc, hẫng hụt của nhân vật trữ tình trước chuyện còn mất trong đời .
Bạch vân thiên tải không du du. Ta thấy câu 1 chỉ có một âm tiết mang thanh bằng, câu thứ hai chỉ có hai âm tiết thanh trắc. Điều đó, nội dung chứa một ẩn ý : Câu thơ thứ nhất có nghĩa Hoàng Hạc lâu gắn liền với hình ảnh thần tiên thơ mộng giờ chỉ còn là ảo ảnh hư vô. Tác giả nhớ về ngày xưa để nuối tiếc cho những gì đã qua, đã mất của cuộc đời.-Câu thơ thứ hai sử dụng tới 5/7 thanh bằng, nhất là ba thanh phù bình (không du du) ở cuối câu đã gợi tả rất thành công cái cảm giác hẫng hụt và tiếc nuối. Đồng thời có khả năng gợi hình tượng, thể hiện vẻ ngưng trệ như không muốn trôi đi của những đám mây. Mặc dù nói đến sự tích lầu Hoàng Hạc nhưng nổi bật lên trên câu chuyện ấy là tâm trạng nuối tiếc, hẫng hụt của nhân vật trữ tình trước chuyện còn mất trong đời .
-
Tiết tấu :
là sự nhanh chậm trong quá trình đọc câu thơ, thường gọi là ngắt nhịp.
Thơ Đường luật có nhịp phổ biến là 2/2/3 ( khác với thể song thất lục bát là
3/2/2) Nếu nhịp khác thường, ắt hẳn nội
dung câu thơ chứa một nét đáng chú ý . Thí dụ
“ Trơ/ cái hồng nhan/ với nước non” ( Tự tình II, Hồ Xuân Hương ) Tác
giả muốn nhấn mạnh ý nghĩa từ “ trơ” . Đây cũng là nhãn tự của bài thơ .
Trong chương trình Ngữ Văn ở ba khối lớp bậc Trung học phổ thông , các tác phẩm thuộc thể loại thơ Đường luật thường được chọn ở phần Đọc hiểu văn bản tương đối nhiều và có chọn lọc . Các tác phẩm thuộc thể thơ này nhỏ gọn, bố cục cụ thể, mang xu hướng chung của đa số các nhà thơ trung đại, đồng thời cũng ẩn chứa những phong cách, tâm hồn rất riêng và độc đáo của mỗi một nhà thơ .
III. KẾT
LUẬN:
1. Do những yêu cầu khắt khe
nhiều mặt về hình thức, Thơ Đường Luật ngày nay ít được lớp nhà thơ trẻ
hưởng hưởng ứng. Các nhà thơ mới ( 1932-45) đã thổi vào hồn giòng thơ xưa cũ bằng
một hình thức mới qua thơ năm, bảy,tám chữ, thất ngôn trường
thiên...Hệ thống niêm luật , đối vần có rất nhiều cách tân, đem đến cho các thể
thơ Việt Nam một sinh khí mới
2. Tuy nhiên, thơ Đường Luật là một kho tàng ông
cha đã để lại cho con cháu, chúng ta phải có trách nhiệm giữ gìn. Trước hết,
phải có một phương pháp thâm nhập bài thơ, tìm thấy nét đặc sắc chung của thể
thơ này và nét riêng, mang phong cách
của mỗi tác giả, mỗi giai đoạn lịch sử . Yêu quí thể thơ Đường luật cũng
là một cách thể hiện tình yêu tiếng mẹ đẻ,là trách nhiệm của mỗi người dân đối với Tổ Quốc
.
No comments:
Post a Comment