I.
TÌM HIỂU CHUNG :
1.
Thể loại:
:
- Bài thơ được sáng tác trong dòng Thơ Mới (
1932-1945), có các điểm nổi bật về nội
dung và nghệ thuật: đề cao cái tôi cá nhân- nghệ thuật là sự dung hòa của nhiều
nét đẹp trong thơ dân gian, thơ Đường, thơ Đường luật và thơ phương tây
-
Tác giả chọn thể bảy chữ bốn câu,mỗi khổ
phảng phất hình ảnh thơ Đường hay
Đường luật ( vần ôm ) thơ phương tây ( vần chéo )
- Với phong cách Huy Cận, buồn ảo não(nội dung, cảm
xúc ) và ảnh hưởng thơ Đường( nghệ thuật ), ảnh hưởng ca dao, truyện Kiều , thơ
Huy Cận chịu nhiều ảnh hưởng từ Verlaine(
trường phái thơ tượng trưng siêu thực,
pha màu sắc dân gian ), ta thấy dường như hiện lên rất rõ qua “Tràng Giang”( Hoài Thanh )
-
Cảnh sông nước
trời mây được phác hà bằng ngôn ngữ
là một bức tranh có bố cục cân đối, mang kết cấu thơ Đường. Từ đây, chất Đường thi cũng hiện lên qua hình
ảnh tượng trưng, cổ điển ( hoàng hôn trên sông với con thuyền, bờ bãi, vãn chợ
, cánh chim về tổ, khói sóng) qua vô số từ Hán Việt , mô tả sự vật ( trường
giang, sầu, hoàng hôn ) nỗi lòng ( buồn
điệp điệp, cô liêu) hành động ( lạc, vãn, sa ), từ đó, tư tưởng cũng thấm đẫm chất cổ thi : nỗi sầu
nhân thế, kín đáo gửi gấm lòng yêu nước sâu lắng . Vì thế, đã có nhà thơ thốt
lên “ Đường hơn cả thơ Đường”
2
. Xuất xứ : Nếu “Vội vàng”là tác
phẩm tiêu biểu cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, “Đây thôn Vĩ dạ”là một kiệt tác
của Hàn Mặc Tử, thì “Tràng Giang”là linh hồn của tập Lửa thiêng .
Đây là tập thơ đầu tay của thi nhân . Chủ đề của tập thơ cũng giống như
phần nhiều các tập thơ khác thuộc khuynh hướng lãng mạn trong phong trào thơ
mới: tình yêu, cái chết, vẻ đẹp thoáng qua của tuổi xuân , hạnh phúc . Tuy
nhiên, có khác với tiếng thở dài còn
phần nào ưu thời mẫn thế của thơ mới trong giai đoạn mở đầu (1932-35), hay cái
vui bồng bột say mê của thơ mới giai đoạn cực thịnh (1936-39), mà đây là tiếng
thơ chuyển tiếp ,từ giai đoạn cực thịnh
sang giai đoạn thoái trào-thời kỳ sắp bùng nổ chiến tranh thế giới lần II ,
thời kỳ Đông dương chìm trong khủng bố và sự ngột lặng . Tập thơ toát lên những
cảm nhận về sự bất tận của thời gian, sự
vô cùng của vũ trụ , cái mong manh của đời người, dư âm buồn bã, quạnh hiu, như nhà thơ Xuân
Diệu đã viết trong lời Tựa đầu tập thơ : Một
bản ngậm ngùi dài . Lửa thiêng như là một sự trở về của cái tôi trong nỗi cô
đơn giá lạnh , lại le lói một tình yêu cuộc sống, yêu quê hương thầm kín .
Sách giáo khoa lớp 11đã gợi ý trong mục
Kết quả cần đạt : Cảm nhận được nỗi buồn
cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, nỗi sầu nhân thế, niềm khao
khát hòa nhập với cuộc đời và tình cảm với quê hương đất nước của tác giả .
Từ điển văn học còn nhận xét : Hầu như
tất cả những biến đổi nhỏ nhất của tạo vật cũng gieo vào Huy Cận một nỗi buồn . Cái buồn man mác trong thơ
Huy Cận (tập Lửa thiêng) cũng còn do tinh thần hồi cố sâu nặng của tác giả .
Nhà thơ thường quay trở về với quá khứ để sống với vẻ đẹp xưa , một chút cảm
giác , chút hương vị , một nét tinh tế về màu sắc ,âm thanh tạo nên không khí
trầm mặc cổ kính của một thời dĩ vãng,
rất gần, hay đang hiện diện, hay một đi không trở lại . Về nghệ thuật, thơ Huy
Cận có hương vị rõ rệt của thơ Đường, và đôi chỗ có những cách biểu hiện giàu
màu sắc tượng trưng mang phong cách riêng của Huy Cận .
Những nhận xét đánh giá trên đây cũng là hướng gợi mở giúp chúng ta tìm
một lối cảm nhận thơ Huy Cận, đặc biệt
bài thơ Tràng Giang .
II.
ĐỌC HIỂU
1. Giới thiệu :
Đọc
bài thơ , ta thấy đây là một bức tranh
thiên nhiên sông nước, cụ thể là Tràng Giang , được nhà thơ dựng lên
bằng ngôn ngữ thơ ca có bố cục cân đối. Nhà thơ thường đạp xe từ nơi trọ học
đến vùng bến Chèm , ngồi xuống bờ sông
,ngoạn cảnh .
- Bố cục
- Vì thế ,cảnh ngang tầm mắt là cảnh giòng
sông Hồng cuồn cuộn đổ về xuôi (đoạn 1). Bao quát xung quanh (đoạn 2, 3),
cảnh hai bờ sông , những cồn đất, bến thuyền, làng xóm xa xa . Cuối cùng
khổ cuối là cảnh trên bầu trời và cảnh ngay dưới chân mình . Đó là những
cảnh gì ?Được tả bằng
một lối ngôn từ thế nào ? Nhà thơ bày tỏ tình cảm gì qua những cảnh
đó?
- Nhan đề
: Hãy bắt đầu bằng nhan đề Tràng
Giang . Sông dài . Nhiều ý kiến cho
rằng tác giả dùng hệ thống âm ang
thay cho ương trong từ trường , đi với giang, tạo âm
vang xa, đem đến cho bài thơ tính nhạc phong phú . Yếu tố Hán
Việt cũng bước đầu tạo nên chất men Đườngthi cho bài thơ . Ở đây, có thể nhà thơ cũng muốn
qua bài thơ, chọn một thú vui thư
giãn khi tung hoàng con chữ ,những từ Hán Việt trang trọng, cổ kính, vốn ít xuất hiện trong
thơ mới, nhưng nhà thơ trẻ Huy Cận lại rất yêu mến ?
2.
Đọc hiểu :
a. Đoạn thơ có một vài chi tiết được phác họa đơn sơ : một con thuyền
trôi xuôi dòng, và một nhánh củi khô bập
bềnh trên sóng nước . Hai câu trong bốn đã dành để mô tả con thuyền , có dụng ý gì ? Dường như
đó là biểu tượng hình ảnh cụ thể nhất về sự
sống một giòng sông , nhất là với từ “thuyền về”,chứ không phải “thuyền
đi”(để đối lập với từ “nước lại”). Về hẳn sẽ còn gặp, chứ đi hẳn hy vọng thấy
lại mong manh hơn .Củi cũng là một biểu tượng của cuộc sống, có thể mang thân
phận nổi nênh một kiếp người .
Nhưng nền của cảnh cần chú ý hơn, bởi
tác giả đang ngắm cảnh sông Hồng . Sóng gợn và
điệp điệp . Dòng nước trăm ngả, và nhiều dòng (trôi theo củi). Những chi
tiết đó có lẽ giúp chúng ta hiểu một nét
về sông Hồng, con sông lớn nhất Bắc Bộ , là mặt sông rất rộng, mênh mông sóng
nước .
Huy Cận thì nhìn thấy nỗi buồn chồng chất qua mặt nước sông : buồn điệp điệp, sầu trăm ngả ,mấy giòng . Con sông
như dài ra, dài mãi . Cảnh đơn sơ, mặt sông mênh mang , và cộng thêm những từ
Hán Việt (tràng giang, điệp điệp, sầu
)khiến nỗi sầu thêm thấm thía .Có lẽ tác giả đã cảm nhận một chút mong manh của
đời người .
b. Hai khổ tiếp, nhà thơ mô tả cảnh bao quanh nơi mình ngồi. Làng nhỏ
bên kia sông văng vẳng âm thanh còn lại sau phiên chợ chiều , và đấy là âm vang
duy nhất ,cuối cùng trong ngày nhà thơ bắt gặp . Hai từ Hán Việt “ vãn” đi với “cô liêu” khiến không
gian buồn mà cổ kính và đẹp Những bờ cỏ
xanh im vắng . Giữa sông có lác đác
những bãi (cồn). Tại sao tác giả chọn từ lơ
thơ để vẽ những bãi cồn nằm rải rác
giữa giòng sông, thay vì lưa thưa .Hẳn từ sau không tạo chất thơ và tính nhạc
cho thơ hơn từ ban đầu . Tính từ “lơ thơ ” còn có tác dụng tả cây cỏ mọc trên
bãi, khi tác giả ngắm rất lâu (có lẽ thế)tìm kiếm một bến đò, một chiếc cầu nối
đôi bờ . Cỏ thấp, không tươi tốt lắm(màu vàng úa) mọc lác đác, phất phơ trong
gió chiều , gió đìu hiu, nhẹ ,lạnh và mơn man buồn . Những khóm bèo cứ theo
sóng trôi dạt lặng lẽ theo dòng, không biết về đâu . Nắng cũng sắp tàn . Có lẽ nắng chiều hắt
xuống lòng sông, nên tia nhìn của người
ngoạn cảnh có phần ngỡ ngàng, thấy như
đáy sông hiện lên, bèn buông từ “sâu chót vót”. Với ánh nắng đó, nhìn quanh chỉ thấy bờ
sông xanh đen dần dưới nắng chiều, những
bãi cồn úa vàng, rồi những đám bèo, không hề có một dấu hiệu sự sống mà tác giả
mỏi mắt kiếm tìm, mới thấy sông thật rộng, và thi nhân thật nhỏ bé, cô đơn,lạc
lõng .
để
viết thêm câu cuối đoạn: sông dài, trời rộng, bến cô liêu . Tràng
(giang) dùng ở nhan đề và câu thứ nhất của bài thơ đóng vai trò một đại từ , còn dài ở câu thơ
này, và câu đề từ, lui về tư thế một tính từ (Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài ).
Từ
“sông dài”là cảm nhận ở đoạn trên, và trời rộng chính là “sông rộng”Hai câu thơ
cùng mô tả những nét chung của sông Hồng , dài, rộng,vắng vẻ . Những khổ
thơ với bao hình ảnh mang tính biểu tượng (nắng chiều, bờ sông,
cồn vắng, bến cô liêu) vừa gợi nhớ khung cảnh làng quê bên sông, vừa mô tả một
giòng sông thật rộng, là nền cho tâm trạng “bâng khuâng nhớ”.
c.Theo bản năng , nhà thơ nhìn lên cao . Mây
giăng kín chân trời như những ngọn núi
màu bạc .Và một cánh chim nghiêng mình bay qua : bóng chiều sa .Hai nét chấm
phá,gam màu lạnh chìm theo hoàng hôn,
những từ Hán Việt tao nhã (hoàng hôn, sa ),khiến tầm mắt ngước nhìn thấy buồn
bâng khuâng .Có lẽ đã đến lúc phải ra về .
Đứng lên ,nhìn xuống chân mình , lại gặp
mặt sông loang loáng sóng , lòng dờn dợn nỗi buồn nhớ nhà . Có lẽ tâm
trạng bồi hồi khi dừng xe, ngồi xuống bãi cỏ ven bờ, nhìn dọc theo chiều dài
con sông ,thấy lòng “ buồn điệp điệp, sầu trăm ngả”, nhìn qua bên bờ sông và
xung quanh, vắng vẻ, quạnh hiu, mới da diết cô đơn “ không cầu, không một chuyến đò
ngang” để cuối cùng “nhớ nhà” .Chuỗi tâm trạng của một thanh niên đôi mươi khi nước nhà đang chìm trong nô lệ chăng ?
Nhà thơ Sóng Hồng, nguyên Tổng bí thư Đảng, từng tâm sự , mỗi lần vượt sông
Hồng trong đêm khi tham gia kháng chiến, ông lại bồi hồi nhớ “Tràng Giang” .
Câu hỏi 1.
Đọc kỹ bài thơ, ta thấy đây là một bức tranh
thiên nhiên sông nước, , được nhà thơ dựng lên bằng ngôn ngữ thơ ca có
bố cục cân đối.Hãy chứng minh
2. Nhan đề Tràng Giang có nghĩa
là sông dài .Tại sao tác giả gọi như thế
?
3 . Đoạn thơ đầu có hai
chi tiết được phác họa đơn sơ,
trên nền giòng sông Hồng .Ba yếu tố này , cùng với hệ thống các từ Hán Việt chỉ
tâm trạng, tác giả muốn nói lên điều gì ? Đoạn một tác giả ngắm sông Hồng
dọc theo chiều dài giòng sông . Những chi tiết nào mô tả khung cảnh này ? Ngôn ngữ thể hiện ra sao ? Tâm trạng tác giả
4. Hai khổ tiếp, nhà thơ mô tả cảnh bao quanh nơi mình ngồi .Nêu những
cảnh vật trong tầm mắt nhà thơ .Ý nghĩa các từ Hán Việt “ vãn ,cô liêu” những
từ láy tượng hình “lơ thơ, đìu hiu ,chót vót, mênh mang, lặng lẽ Đoạn hai
và ba
tác giả ngắm sông Hồng theo chiều rộng,xung quanh giòng sông . Những chi tiết nào mô tả khung cảnh này ? Ngôn ngữ thể hiện ra sao ? Tâm trạng tác giả
?
5Đoạn cuối chứa khoảng trời và
chân trời bên sông Hồng . Những chi tiết
nào mô tả khung cảnh này ? Ngôn ngữ thể hiện ra sao ? Tâm trạng tác giả
?
No comments:
Post a Comment