Bài 3
BÌNH
LUẬN CHÍNH LUẬN
HỊCH TƯỚNG SĨ
( Trần Hưng Đạo)
Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh ,
người cầm đầu một phong trào, một tổ
chức dùng để công khai kêu gọi ,cổ động, thuyết phục mọi người dốc lòng chiến đấu tiêu diệt kẻ thù .
Hịch xuất hiện từ
thời chiến quốc ở Trung Quốc và đã đưa
vào nước ta từ thời Bắc thuộc . Trong nền văn học Việt Nam, Hịch đặc biệt phát
triển mạnh mẽ vào thời kỳ cần kêu gọi
nhân dân, tướng sĩ quyết tâm đứng lên
chống giặc ngoại xâm .
Ở đây chúng ta có thể nhắc đến một số bài
hịch gắn liền với những biến cố lịch sử
của dân tộc:
- lời hiểu dụ Tướng sĩ tại ThànhThọ Hạc, ( Thanh Hóa)
của vua Quang Trung năm 1789, kêu gọi tướng sĩ hợp lực đánh quân Thanh
- Chiếu Cần Vương, tên chính thức là Lệnh dụ thiên hạ cần vương, là lệnh dụ của vua Hàm Nghi nhà
Nguyễnnăm 1885. Lời dụ kêu gọi sĩ phu và dân chúng toàn quốc nổi dậy chống lại
sự đô hộ của người Pháp lên đất nước Đại Nam sau Hiệp ước Giáp Thân (1884);
- Sáng 20-12-1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Hồ Chủ tịch theo làn sóng điện truyền đi khắp đất nước và trên toàn
thế giới.
- Ngoài ra
chúng ta có những bài hịch ngắn của vua Quang Trung trong dịp cầm quân
đánh Trịnh( Hịch đánh Trịnh ) hay hịch kêu gọi các phu đò nhiệt tình đưa quân lính qua sông khi ra Bắc đánh quân Thanh (Hịch gọi đò )
Bài hịch tiêu
biểu nhất, có giá trị nhất trong nền văn học nước ta là “ Hịch tướng sĩ văn”
của Trần Hưng Đạo năm 1284.
Hịch
thường được viết theo lối văn tứ lục, cũng có khi viết bằng văn xuôi hay thơ
lục bát . Kết cấu của bài hịch có thể thay đổi linh hoạt tùy theo mục
đích và nghệ thuật lập luận của tác giả. Bố cục bài hịch phổ biến là : Nêu một nguyên lý đạo đức
hay chính trị( phần 1) Kể tội ác giặc ( phần 2) Lời kêu gọi ( 3).
Nếu đối chiếu với cấu trúc một văn bản thuộc
thể bình luận , bài hịch có dung lượng lớn như Hịch tướng sĩ có đủ năm phần : Nêu vấn đề ( đưa luận đề ) Trình bày, phân tích mặt tích cực của luận
đề. Chỉ ra những mặt còn hạn chế của luận đề. Dung hòa giữa hai mặt tích cực và
hạn chế. Hướng hành động.
Bài hịch mang bố cục
của một tác phẩm bình luận chính trị , có kết cấu hệ thống, lập luận chặt chẽ, ý
tưởng mạch lạc, lý lẽ sắc bén
1 Trong năm phần của một văn bản thuộc thể nghị luận, ngay phần đầu (Ta thường nghe… bất hủ được
) tác giả vận dụng thao tác lập luận qui nạp ,lối bác bỏ, nhưng muốn làm nổi bật trọng tâm của bài hich :
Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước,
đời nào chẳng có . Tác giả
đưa ra hàng loạt những tấm gương vì vua mà quên thân của nhiều nhân tài, như một
lời khẳng định mạnh mẽ về chân lý : phò vua, cứu nước là nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả của bậc quân tướng Biện pháp bác bỏ như một lời phân tích và phê phán : nếu các ngươi cứ khư khư theo thói
nhi nữ thường tình đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách .
Cách kêu gọi của tác giả phù hợp với kết cấu
một bài bình luận ( đặt vấn đề) đồng thời đánh động vào lòng tự ái vốn rất cao
của tướng sĩ đời Trần, phần lớn thuộc giòng giõi tông thất : trung thần phải bỏ
mình vì nước, ngược lại hèn nhát thì không thể lưu tiếng tốt, mà có thể còn bị
bêu diếu .
2 .Phần thứ hai có hai đoạn (Các ngươi… lưu tiếng tốt và Huống chi.. kém
gì ) tác giả chứng minh để khẳng định điều mình nêu (Từ xưa các bậc trung thần
nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có) là đúng . Đoạn tiếp theo tác giả dùng ngay mối quan hệ giữa ông và các
tướng nhà Trần để thuyết phục họ bằng hai ý : giặc đang xâm lược nước ta, gây
ra nhiều điều tổn hại danh dự vua
quan, trong đó có Trần Hưng Đạo. Trong khi đó,
Trần Hưng Đạo rất gắn bó, quý mến, biệt đãi tướng sĩ chu đáo . Bản thân ông vốn quí tướng sĩ, vậy tướng sĩ có đồng cảm với nỗi nhục của ông không ?
Lối lập luận qui
nạp và phân tích cụ thể , đầy thuyết
phục Đây là mặt đúng để xác định khía cạnh tích cực của luận đề: Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình
vì nước, đời nào chẳng có
3 .Phần ba , tác giả lại chọn thao tác diễn dịch, nêu ngay những
mặt còn hạn chế của tướng sĩ, thay vì đi
từ nhiều dẫn chứng để rút ra luận cứ như đoạn trên Tác giả gay gắt chỉ ra thái độ thỏa hiệp với giặc của họ (nhìn chủ nhục - không biết
lo; thân chịu quốc sỉ - không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man
- không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy - không biết căm)và thú hưởng thụ thời bình lãng phí ,vô bổ
(chọi gà; cờ bạc
,cung phụng gia đình; quyến luyến vợ con ,thỏa lòng vị kỷ. tính đường sản
nghiệp mà quên việc nước; ham trò săn bắn mà trễ việc quân thích rượu ngon; mê
giọng nhảm.) Những thái độ
sống và thói hưởng thụ ấy không hề phù hợp với không khí dầu sôi lửa bỏng lúc
này. Tác giả nêu thật tỉ mỉ, như những lý lẽ
sắc bén khiến mọi người nghe đều
phải thẹn và nhìn lại bản thân mình . Giọng văn thay đổi, khiến người nghe chú ý. “.Nay các ngươig ngồi nhìn chủ
nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn”
4 .Phần
bốn,ông đưa ra mặt dung hòa, hay là
mặt tích cực nhất của vấn đề: Nay ta bảo thật các ngươi:
nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều
"kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ.( Ôm mồi lửa, đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp
cháy vẫn cho là yên.) Kiềng canh nóng mà thổi rau
nguội: xuất xứ từ một câu văn trong Sở Từ - trừng ư canh nhi xuy tê hề. :Người
bị bỏng vì canh nóng, trong lòng đã e sợ sẵn, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng vẫn
thổi như thường.))nghĩa là : hãy tỉnh táo , khiếp sợ hai điều: đừng chủ quan khinh địch, luôn nêu cao ý thức
cảnh giác
Hướng
sống quan trọng của tướng sĩ là như thế. Lửa chưa cháy khi bếp củi đã nhúm, thì đừng quá chủ quan và tự tin, vì sức giặc rất
hùng mạnh. Xưa nay ăn canh nóng mới
thổi, nhưng bây giờ gặp rau nguội, cũng cẩn thận, vì không lường được trong rau nguội có vấn đề gì
. Cách dung hòa bằng những hình ảnh ẩn dụ, chở theo lời dạy của tiền nhân, thì tướng nào, sĩ nào không xao lòng !
5 . Phần cuối, tác giả chỉ ra hướng hành động cụ thể :
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư
Yếu Lược Nếu
các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần
tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch
thù.
“Biết chuyên
tập sách này” nghĩa là phải học và làm theo . Binh gia diệu lý yếu lược hay còn gọi là Binh
thư yếu lược là một tác phẩm
của Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn về nghệ thuật quân sự, Binh thư yếu lược gồm có 4 quyển, với các chương như sau:
·
Quyển 1: gồm 9 chương: Thiên
tượng, Kén mộ, Chọn
tướng, Đạo
làm tướng, Kén
luyện, Quân lễ, Tuyển người làm việc dưới trướng, Đồ dùng
của binh lính, Hiệu
lệnh.
·
Quyển 2: gồm 10 chương: Hành
quân, Hướng đạo, Đồn trú, Tuần
canh, Quân tư, Hình thế, Phòng bị, Điểm
về việc binh, Phép
dùng gián điệp, Dùng
cách lừa dối.
·
Quyển
3: gồm 7 chương: Liệu
thế giặc, Quyết
chiến, Đặt cờ, Dã chiến, Sơn
chiến, Thủy
chiến, Lâm
chiến.
·
Quyển
4: gồm 7 chương: Đánh
thành, Giữ
thành, Công
thành, Xông
vây - ứng cứu, Lui đánh, Thắng và đặt phục, Phép nhận hạng [1]
Đây là phần quan trọng hàng đầu của mọi bài
hịch. Bốn phần trên có tác dụng đánh thức những suy nghĩ, tình cảm , cách
phân biệt đúng sai của vấn đề mà thôi.
Trong Lời hiểu dụ Tướng sĩ, Vua Quang
Trung chỉ rõ : Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó ngựa xe tan tác
Đánh cho nó manh giáp chẳng còn
Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ.
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó ngựa xe tan tác
Đánh cho nó manh giáp chẳng còn
Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ.
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ,
chủ tịch Hồ chí Minh đã viết "Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước”
Hịch
tướng sĩ ra đời trong hoàn cảnh nào
?
Tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu Thiệu Bảo năm thứ 6, đời
Trần Nhân-Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp.
Vua Nhân-Tông thấy thế giặc mạnh, cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng "Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân ?"
Vương tâu: "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn-Miếu Xã-Tắc thì sao ? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng !!" Vua nghe thế yên lòng.
Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20 vạn quân Nam, và thảo bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn, thường gọi là Hịch tướng sĩ) để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2.
Trong "Việt Nam Sử Lược ", Trần Trọng Kim ghi rằng binh sĩ nghe lời hịch nức lòng, lấy mực xăm vào tay hai chữ : "Sát Thát" (nghĩa giết quân Mông Cổ), và hết lòng chiến đấu chống giặc.
Vua Nhân-Tông thấy thế giặc mạnh, cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng "Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân ?"
Vương tâu: "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn-Miếu Xã-Tắc thì sao ? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng !!" Vua nghe thế yên lòng.
Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20 vạn quân Nam, và thảo bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn, thường gọi là Hịch tướng sĩ) để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2.
Trong "Việt Nam Sử Lược ", Trần Trọng Kim ghi rằng binh sĩ nghe lời hịch nức lòng, lấy mực xăm vào tay hai chữ : "Sát Thát" (nghĩa giết quân Mông Cổ), và hết lòng chiến đấu chống giặc.
DÀN Ý
1. Nêu vấn đề: Từ các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước,
đời nào chẳng có
2. Mặt đúng của tướng sĩ nhà Trần : Bản thân ông vốn quí tướng sĩ, vậy tướng sĩ cũng đồng
cảm với nỗi nhục của ông
3 .Mặt sai của tướng sĩ nhà Trần: Nay
các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết
thẹn”
4 Mặt dung hòa : hãy tỉnh táo , khiếp sợ hai điều: đừng chủ quan khinh địch, luôn nêu cao ý thức
cảnh giác
5 . Tướng sĩ
phải làm gì ?
Câu hỏi :
1.
Định nghĩa và bố cục một bài
hịch. Đối chiếu với thể loại nghị luận bình luận, bài Hịch tướng sĩ có
kết cấu ra sao ?Nêu hoàn cảnh ra đời của bài hịch này ?
2.
Lần lượt phân tích 5 bước của bài Hịch tướng sĩ ? Bằng thủ pháp
nghệ thuật gì? Vấn đề gì được sáng tỏ qua mỗi bước ?
3.
Lập dàn ý chung của bài
hịch này .
Dalat 06.10.2012
No comments:
Post a Comment