Monday, August 26, 2019

Bài 7 THỂ THƠ ĐƯỜNG LUẬT THẤT NGÔN BÁT CÚ THƯƠNG VỢ (Trần Tế Xương)


I GIỚI THIỆU:
 Đọc trọn bài thơ, ta chỉ thấy lời bà Tú tâm tình về cảnh ngộ  tấm lòng  đẹp đẽ của bà  con và đặc biệt là chồng
    1.Nhan đề : Thương có nghĩa là muốn chiếm giữ, và quý trọng , cả biết ơn .  Đối tượng được nhà thơ quý trọng, tri ân đó là “một nửa của mình ”:vợ . Người xưa xem việc cưới vợ về chung sống là một  việc làm vô cùng quan trọng, ngang hàng với trách nhiệm học hành, đỗ  đạt , vì nghĩa vụ của  người đàn ông với xã hội là có đủ danh vọng, tiền bạc và tình yêu . Đối với gia đình, bổn phận người con trai theo quan niệm Nho giáo cần có người nối dõi tông đường . Nhà nông lại cần sức lao động. Tóm lại,vợ là người đi suốt cuộc đời với người đàn ông mà gia đình, dòng họ, xã hội đã kết đôi họ với nhau,thiêng liêng hơn cả tình yêu từ trái tim .Rồi trong kiếp người trăm năm,người chồng ấy lần lượt  “gạch tên”nhiều người thân : ông  bà, bố mẹ,anh chị em, con cái, và  vợ là tên sau cùng .
 2.   Tú : tên thật là Phạm Thị Mẫn, sinh năm 1869, hơn ông Tú một tuổi , là hậu duệ của danh sĩ Phạm Quý Thích ở làng Lương Đường (Hải Dương). Nghĩa là bà cũng thuộc dòng dõi nho giáo, rất  “môn đăng hộ đối” với Tú Xương. Cuối thế kỷ 19 gia đình bà từ Hải Dương sang thành phố Nam Định mở cửa hiệu buôn bán. Hai nhà ở cùng phố , Tú Xương và Phạm Thị Mẫn quen thân nhau, từ thủa vị thành niên. Bà Mẫn có đủ tứ đức của người con gái lớn lên trong một gia đình nề nếp, vừa có cái mau mắn tháo vát của một người vợ  đảm đang, va đập với kinh tế thị trường. Với ông Tú ,ngoài  tình yêu vợ chồng  sâu đậm,bà  còn dành cho ông  lòng  bao dung, che chở của một người chị, người mẹ. Tú Xương cưới vợ rất sớm (16 tuổi ). Suốt mấy chục  năm, bà nuôi ông đèn sách, thi cử . Tú Xương “phạm trường quy” tới 8 khóa thi. Cuối cùng ông chỉ đỗ có cái tú tài ,dù vốn chữ Nho và kiến thức văn chương Đông – Tây, ở Nam Định thời ấy không mấy người sánh được với ông.Nguyên nhân  bắt nguồn từ  thói phóng túng nghệ sĩ của ông  không phù hợp với những nội quy trường ốc ngặt nghèo và không kém phần phi lý lúc bấy giờ. Nhà nước bấy giờ chỉ  tuyển  người đỗ cử nhân. Thế là Tú Xương không giúp được gì cho vợ con . Bà Tú phải bao nuôi, che chở ông Tú như đàn  con tám  người  của mình vậy.  Bà Tú là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa ở nhiều phương diện như tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình.. Điều đặc biệt là chính bà đã đi vào thi phẩm của ông chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn.

IIĐỌC HIỂU :
.
1.    .  Tú phải  nhận lấy trách nhiệm vô cùng nặng nề :
 Trong Đề, câu 1 được gọi là phá đề với nhiệm  mở ý của nhan đề bài thơ ,câu 2 gọi là  thừa đề, có chức năng tiếp ý của Phá đề để chuyển vào thân bài .
         
  -Câu 1 (phá đề) kết hợp với nhan đề trong bài thơ Thương vợ giúp ta có thể hiểu rằng nhà thơ quý vợ vì bà  đã chấp nhận một cảnh ngộ thật vất vả .Nhiều người thấy câu thơ bảy chữ này “Quanh năm buôn bán ở mom sông ”dường như không thừa một âm tiết nào , vì tất cả đều có ý nghĩa . “Buôn bán” là công việc  trao đổi hàng hóa  dưới hình thức mua đi ,bán lại để kiếm lãi . Quanh năm gắn liền với thành ngữ “quanh năm suốt tháng” có nghĩa rằng   công việc chiếm hết quỹ thời gian của người chọn việc buôn bán làm nghề mưu sinh . Mom sông là vùng ven sông , chỉ không gian kinh doanh của bà Tú . Cả ba cụm từ khái quát ba yếu tố để giới thiệu một  con người, chở theo tình cảm người viết  : nhân vật (bà Tú )có  cuộc sống  không hề nhẹ nhàng,   thời gian thì triền miên,dai dẳng, và không gian đầy hiểm nguy sóng gió. Hai từ đậm màu sắc dân dã (quanh năm , mom sông )  đã ẩn chứa niềm cảm thương sâu sắc của Tú Xương dành cho vợ
    - Câu 2(thừa đề )tiếp ý của phá đề để chuyển vào phần Thực .Bà Tú tần tảo vì  “năm con với một chồng”. Rất nhiều dồn bút mực để khai thác tầng tầng ý nghĩa chất chứa trong câu thừa đề này.  Trong câu thơ trọng tâm này, nhiều nhà thơ còn dồn  hết cho tứ thơ ,tình cảm của mình vào một vài từ gọi là “nhãn tự”. Và từ đó là “nuôi đủ”. Biết bao gian khổ,nhọc nhằn, vất vả đặt lên vai bà Tú,vốn con nhà quan , để “nuôi đủ” đàn con  đông đảo, đặc biệt , với một ông chồng , ngỡ “ăn theo”( trong ngôn ngữ tiếng Việt dân gian , người xưa chỉ gọi nuôi chồng con, nhưng ở đây thì ngược lại. ) Tú Xương luôn tự nhận mình là một người chồng đầy tiêu cực và nhược điểm .Nhà thơ thường cường điệu lên để chế giễu con người ăn chơi,vô trách nhiệm của mình .Ở đây cũng thế .Cười trong xót xa,bởi ông hiểu rất rõ sự hy sinh to lớn của vợ .Nuôi nghĩa là cung cấp những điều kiện về vật chất ,tinh thần để một cơ thể sống tồn tại,khỏe mạnh . Đủ nghĩa là không được thiếu .Một người phụ nữ nhỏ bé, tần tảo để làm sao cho một gia đình bảy miệng ăn được “đủ” qua mỗi ngày , và người chồng hiểu thấm thía điều đó, thì Tú Xương thật lòng yêu quí và biết ơn vợ biết bao .
     .
   Chẳng hạn với bài thơ Thương vợ  , chúng ta hãy  nghiền ngẫm câu thừa đề “nuôi đủ năm con với một chồng”. “Nuôi”nghĩa là cung cấp những điều kiện về vật chất ,tinh thần để một cơ thể sống tồn tại,khỏe mạnh . Đủ” nghĩa là không được thiếu .Một người phụ nữ nhỏ bé, tần tảo để làm sao cho một gia đình bảy miệng ăn được “đủ” qua mỗi ngày, hơn thế nữa , mấy chục năm ròng  ( mà ta biết ông bà Tú có những tám người con, trong đó chỉ có hai nữ ) . Bà phải làm gì để có thể nhận lấy trách nhiệm vô cùng nặng nề này? Thế thì  câu trả lời có ở phần Phá đề . Và chính vì thế mà  có nhan đề  bài  thơ .
2. Tất cả là do số phận,là duyên nợ ,và cả cam chịu .
    -   Câu 3 và 4 được gọi là thực , có chức năng giải thích rõ ý nhan đề , đồng thời là phần chứng minh cho  phần Đề .Bà Tú “buôn bán” để “nuôi đủ” chồng con như thế nào ? Tấm lòng thương yêu vợ nhà thơ thể hiện ra sao?. “ Lặn lội” ( mượn  câu ca dao xưa )là một từ tượng hình,   mô tả một bà Tú   cực nhọc về thể xác, còn “eo sèo” là từ tượng thanh, nhấn mạnh nỗi ê chề về tinh thần. Mang tiếng vợ ông Tú, nhưng bà phải  vượt qua bao nhọc nhằn, cay đắng . Tú Xương mượn lời vợ để kể lể, đó là tấm lòng xót xa của ông dành cho vợ, cả cho chính mình .
     - Câu 5 và 6 được gọi là Luận, mang nhiệm vụ phát triển rộng ý phần đề và nhan đề . Có thể xem đây là phần Bình trong một bài nghị luận . Tú Xương nói hộ vợ, rằng tất cả là do số phận,là duyên nợ ,và cả cam chịu . Có tấm lòng cảm  thông vợ sâu sắc như thế, ông đâu phải là kẻ vô tích sự .
3. Nhà thơ tri ân vợ
    - Câu 7 và 8: Nhưng nhà thơ đã giễu cợt con người mình ,một ông chồng mà “có cũng như không ”. Cần khai thác sâu ý tưởng câu thơ này . Phần Kết có nhiệm vụ kết thúc ý toàn bài, và tập trung câu tám . Nối với câu 2 ( nuôi đủ năm con với một chồng ), thế mà (có chồng hờ hững cũng như không )ta hiểu sâu về  sự hy sinh cao cả của người vợ hiền, nhưng Tú Xương không thể san sẻ .Nhan đề bài thơ đã nói hộ ông .Do vậy, dù có thể cất hết những câu thơ còn lại, thì khi Đọc hiểu thơ Đường luật, chúng ta cần xâu chuỗi nhan đề,câu 2 và câu 8 , ý trọng tâm hay chủ đề tư tưởng sẽ lộ ra ngay.
.

  - 


.
 


(Dalat 8.3.2012,  đi chơi  làng Cù Lần - thung lũng Vàng, Lạc Dương )

No comments:

Post a Comment