“Sóng” là một bài thơ có nhiều nét độc đáo .
Trước hết ,thể thơ ngũ ngôn trường
thiên ta thường gặp ở những bài thơ đậm chất tự sự ( Cá nước của Tố Hữu, Đi
chùa Hương của Nguyễn Nhượng Pháp, và mới đây nhiều bạn trẻ rất thích chùm thơ
ngũ ngôn trường thiên của Nguyễn Tất Nhiên, nhiều bài có ấn tượng đã được nhạc
sĩ Phạm Duy chắp cánh bay bổng bằng
những giai điệu đẹp )Như vậy,điều nhân
vật trữ tình –tự sự , mà tác giả muốn ẩn vào để kể câu chuyện tình yêu của mình
là Sóng và Em . Đây là nét thứ hai gây cảm giác thú vị cho
người đọc, đặc biệt giới trẻ . Tiếp theo , Xuân Quỳnh viết bài thơ này(1967)
khi đã thành hôn cùng anh Lưu Tuấn, một nhạc công của đoàn văn công
trung ương vào năm 1964 (sau khi nữ thi sĩ cho xuất bản tập thơ Chồi Biếc 1963). Như vậy có thể hiểu tình yêu
của sóng và bờ không chỉ là tình yêu đôi trẻ ,mà là hạnh phúc của người thiếu nữ trong hôn nhân . Nét cần lưu tâm nhất là nhà thơ mượn
hình ảnh gió thổi mặt nước chạm bờ tạo nên sóng, để liên tưởng đến tình yêu .
Lối so sánh này rất gần với cảm giác của những người trẻ đang yêu , sự gần gũi ,
sự đụng chạm giữa nước và bờ … Nét tiếp
theo, lần đầu trong mục thơ văn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, học sinh được làm quen với một nữ thi sĩ . Xuân Quỳnh là
nhà thơ nữ thứ hai sau Đoàn thị Điểm, người dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn từ chữ Hán sang chữ Nôm thế kỷ thứ 17, và Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương ,thế kỷ 18 . Hồn thơ nữ luôn có những nét riêng độc đáo . Thứ
đến, thơ của một tâm hồn nữ, giãi bày tình yêu hôn nhân, hẳn có nét khác
người nam . Hơn nữa , ngôn ngữ ,nhạc
điệu trong thơ mang đặc trưng của phong cách thơ Xuân Quỳnh .Và nét độc đáo
cuối cùng , bài thơ viết về tình yêu hôn nhân, khi miền Bắc đang hối hả công
cuộc xây dựng lại đất nước sau nhiều tháng năm kiên cường chống thực dân Pháp,
đồng thời gánh lấy sứ mạng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” vô cùng cao cả ,
thực hiện trách nghiệm giải phóng Miền
Nam, thống nhất đất nước, với biết bao
“cuộc chia ly màu đỏ” và “hai người chia tay sao chẳng nói điều gì, mà hương thầm vương vấn mãi người đi!”
Đó là những nét ta cần lưu ý, về mặt nội
dung và nghệ thuật của bài thơ Sóng khi
giúp học sinh đọc hiểu thi phẩm này .
Có một số từ ngữ chúng ta cần cắt
nghĩa trong quá trình cảm nhận bài thơ. Đó là những từ cùng một
trường nghĩa . Về sóng có biển,bờ, gió,
dữ dội,ồn ào, dịu êm .lặng lẽ, lòng sâu,mặt nước, mây ,vỗ , phương Bắc,Nam,tan
ra , Về tình yêu có em ,anh, tìm ra
tận , nhớ ,thức,ngủ, nghĩ, trong mơ , không biết nữa, yêu nhau,nhớ, cuộc đời, năm tháng ,ngàn năm ,ngày xưa ,ngày sau, nét đẹp tâm
hồn
Xác nhận bài Sóng là một dạng thơ tự
sự-trữ tình .Tự sự là kể chuyện . Vậy tác giả muốn kể chuyện gì ?
Lần đầu khi tôi tìm hiểu bài thơ Sóng, có một người đã nhận định : Bài thơ là lời của một
cô gái ,xưng là em , có tên là Sóng .Cô sống trong sông, nhưng “sông không hiểu
nổi mình”, Sóng tìm ra biển . Ở đây, cô đã gặp biển và ở lại .Cô đã trải nghiệm
biết bao cung bậc cảm xúc trong tình yêu hôn nhân . Với cô, lúc này, cô bộc lộ
nhiều nét đẹp tâm hồn điển hình của người phụ nữ Việt Nam , không chỉ trong
tình yêu, hạnh phúc gia đình mà trong cuộc sống.
Vậy, sóng là gì ? Có những yếu tố nào tạo
mối liên quan giữa sóng và tình yêu ?
Không khí chuyển động tạo thành gió . Gió di
chuyển trên mặt nước biển, đẩy nước chạm vào bờ , tạo nên những gợn hoặc cuộn
sóng lớn . Khi nam nữ yêu nhau, sẽ có một yếu tố như gió (khát vọng tình
yêu chi phối những suy nghĩ của khối óc, những xúc động
bồi hồi ,có lúc thật vui , ồn ào,dữ dội , nhưng cũng có lúc êm dịu,có lúc buồn lặng lẽ ) đẩy mặt nước (em )
đến với bờ (anh ) .Đó là tình yêu .Tác
giả đã hẳn nhiều dịp ngồi ngắm sóng biển, thích thú theo dõi từng con sóng đẩy
nước chạm bờ, có sự vồ vập,cả âu yếm vuốt ve, cô liên tưởng đến tình yêu hôn
nhân của mình .
Ở hai khổ thơ đầu,nhà thơ đã định nghĩa
tình yêu là gì qua hình tượng con sóng, nhưng không dùng lối diễn dịch, mà chọn
hướng quy nạp . Khi con tim luôn ở hai cung bậc cảm xúc cao và thấp nhất , lại dường như đối lập nhau
(dữ dội- dịu êm ; ồn ào-lặng lẽ )và khối óc thì “không hiểu nổi mình”, cô không
thể lý giải được con người cô ở thời điểm mà ông bà thường gọi là “phải lòng ”
một ai đó . Nhưng rồi cô biết đó là hiện tượng mà “ngày xưa, ngày sau vẫn thế ”,là quy luật , khi Trưng Trắc yêu
Thi Sách, đến bây giờ,nhà thơ,nhân vật trữ tình , đang sống trong tuổi yêu
đương,sống với trái tim luôn ở hai cung bậc cảm xúc ,còn khối óc thì đầy khó hiểu, đó là khát
vọng tình yêu . Vì vậy , nhân vật “em”là bờ ,phải tìm đến “anh” (mặt nước),với
một tư thế rất chủ động ,rất quyết tâm (tìm ra tận ) thì trái tim, khối óc mách
bảo họ , tình yêu đấy
Anh và em là hai đại từ ngôi hai và cả ngôi thứ nhất để xưng hô và gọi ,trước hết là mối quan hệ
ruột rà trong gia đình, có anh ,người con trai lớn,và em , người nhỏ hơn,có thể
cả nam và nữ .Sau đó là chỉ những mối quan hệ thân tình, xã giao trong cuộc
sống
Trong tình yêu, không biết tự bao giờ,trong ca dao , ta đã bắt gặp lối xưng hô
thân tình ,đẹp đẽ này .Giữa anh và em có một từ bắc cầu : yêu nhau .
Yêu là một động từ ,một cử chỉ thể hiện cảm
xúc mãnh liệt,sâu đậm ,chân thành và có khuynh hướng chiếm hữu của hai nhân vật ta gọi là anh em dành cho
nhau. Bởi tình yêu nam nữ bên cạnh những yếu tố tinh thần còn có sự quan tâm về
thể xác. Nhưng ở đây, bài thơ đẹp bởi nhà thơ luôn đề cao mặt tinh thần, lý
trí, vẻ đẹp luôn “nghĩ về anh , em, về sóng, về biển ” ,có một chút bâng khuâng của
con tim “không biết nữa”.Trong hai khổ ba tư,
hai động từ “nghĩ”,đi liền với một động từ “không biết” như đối lập,
nhưng đó là trạng thái tâm lý yêu đương
.Tình yêu luôn tỉnh táo,cân nhắc, nhưng đôi khi cũng có chút bồng bột , buông
thả .
Ở khổ tiếp theo (khổ thứ năm ),tác giả bộc
bạch một tâm trạng rất thường có ở
những đôi lứa yêu nhau : nỗi nhớ Thoạt
tiên,nhà thơ mượn hình ảnh con sóng rì
rào vỗ đêm ngày, như không bao giờ ngủ , đó là một quy luật tự nhiên ai cũng
biết.Thế thì trong tình yêu nam nữ cũng có một “ triệu chứng” như thế . Cô nhớ
người yêu,nhớ trong buổi ban ngày, nhớ vào ban đêm, cả khi nhu cầu sinh lý cần
phải ngủ,thì đòi hỏi tâm lý vẫn thức trong mơ để nhớ . Hai câu thơ có lẽ hay
nhất bài thơ, được tác giả “dôi khổ ”trong một khổ chỉ bốn câu thông dụng, như
muốn nhấn mạnh nỗi nhớ của mình . Nhớ là một
động từ,thể hiện hành động trí óc, con tim luôn nghĩ về một đối tượng với tâm trạng yêu quí lẫn bồi
hồi .Nhớ trong khi yêu còn có tâm lý muốn chiếm hữu, muốn gặp gỡ . Nhà thơ trữ
tình –chính trị Tố Hữu cũng ấp ủ một nỗi
nhớ những con người,mảnh đất Việt Bắc , khi đã từng gắn bó mười lăm năm, nay
ông cùng cán bộ về tiếp quản thủ đô những ngày tháng 10.1954. Nỗi nhớ là lòng
tri ân, và mong ước có cơ hội đáp đền Quang Dũng cũng gửi nỗi nhớ đơn vị Tây Tiến ,
một binh đoàn với nhiều chàng trai Hà Nội , tiến về Tây Thanh Hóa ,giáp Lào, thanh trừng bọn phỉ , giữ
gìn nền độc lập còn non trẻ của Tổ Quốc, nỗi nhớ đó là niềm tự hào, là lòng
ngưỡng mộ ..Mức độ nhớ trong tình yêu dường như mãnh liệt hơn tất cả - cả trong
mơ còn thức-nhớ trong ý thức lẫn tiềm
thức . Nhưng đẹp nhất vẫn là nỗi nhớ của đôi bạn trẻ đến mức độ “cả trong mơ
còn thức ”.
Ở khổ thứ sáu, nhà thơ bộc
bạch một tâm trạng khác trong tình yêu .
Điều này có sự nghịch lý giữa sóng và tình yêu. Sóng có khi trôi dạt
nhiều hướng, do gió thổi,nhưng tình yêu thì chỉ có một hướng, một phương :
phương anh . Cách diễn dạt thể hiện một lời thề đinh ninh : dù trong cuộc sống
có bị đẩy ra Bắc,vào Nam, em cũng cũng mãi mãi chỉ nghĩ về anh mà thôi . Đất
nước trong giai đoạn kêu gọi những chàng
trai ,cô gái “khi Tổ Quốc cần, họ biết
sống xa nhau ”thì những lời thơ đẹp và ý nghĩa “nơi nào em cũng nghĩ hướng về
anh –một phương”Đó là lòng thủy chung Ngay khái niệm thủy chung cũng mang nhiều
tầng ý nghĩa .Thủy là sự bắt đầu,chung là kết thúc .Tình yêu đi từ thuở mới yêu
nhau ,đến lúc bạc đầu, cuộc sống còn gì đẹp hơn . Người ta vẫn hiểu rằng, trong
đời có những lúc chúng ta cô độc . Bố mẹ,anh chị em ,những người thân yêu nhất
sẽ rời xa ta,vì họ có cuộc sống của họ,
chúng ta cũng vậy. Nhưng anh và em sẽ
cùng nhau đi hết cuộc đời , không phải do pháp luật hay tôn giáo quy định, mà do tình yêu tạo
nên.
Vẫn mượn hình ảnh sóng miên man dội vào bờ
,vượt qua bao chướng ngại trên đường đi , Cũng như “em” muốn được gần
bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái
thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như
anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc
trọn vẹn của lứa đôi.(khổ 7)
Khổ 8 và 9 có
cùng một nội dung . Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống
trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con
sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu
cộng đồng:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Tại sao ư ? Vì cuộc đời này đầy hữu hạn , năm tháng
qua đi, tuổi già,cái chết cuối chân trời , không như sóng , biển bờ đâu . Bai
thơ do Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967, trong chuyến đi thực tế
ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình),
và sau đó được in trong tập Hoa
dọc chiến hào. Bài thơ đã được đưa vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam, và
được đánh giá là một bài thơ
đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách của Xuân Quỳnh[1].
Phong cách tác giả là gì ? Chúng ta hiểu chung chung khi những nét riêng của tác giả về mặt nội
dung và nghệ thuật được lặp nhiều lần ở những tác phẩm khác nhau,ta gọi là
phong cách . Vậy,có thể hiểu : phong cách
sáng tác hay phong cách tác giả
là nhà văn, nhà thơ đó thường viết về những
đề tài gì , với nội dung tư tưởng gì ta thường gặpở nhiều tác phẩm (viết về điều gì ). Và tác giả thường chọn thể loại nào, lối diễn dạt từ câu,chữ,
giọng văn , biện pháp tu từ … ra sao (viết như thế nào ). Ở đây, đề tài Xuân
Quỳnh thường chọn vốn rất gần gũi với cuộc sống đời thường , như Tiếng gà
trưa,Mái phố, Bao giờ ngâu nở hoa .Gởi lại thành phố nắng, Sân ga chiều em đi ,
những biến cố ,sự việc rất gần gũi, thân quen được thi nhân đưa vào thơ mình . Sóng , thuyền
biển cũng là những ẩn dụ phổ biến trong tình yêu . Từ đề tài phong phú đó, bao
giờ Xuân Quỳnh cũng hướng lòng về những
khát khao cuộc sống trọn vẹn, êm đềm, pha chút chịu đựng, nhọc nhằn,cam chịu
của một tâm hồn phụ nữ . Thơ Xuân Quỳnh giàu màu sắc tự sự- trữ tình, nên rất
nhiều bài thơ, nhà thơ chọn lối kể thủ thỉ
của thơ ngũ ngôn trường thiên ,nhiều bài rất đặc sắc, tạo ấn tượng đẹp
cho người đọc (Chuyện cổ tích loài
người,Thơ tình cuối mùa thu, Lời ru của mẹ ,Gởi lại thành phố nắng )Ngôn ngữ
thơ giản dị ,đời thường, không quá cầu kỳ gọt dũa, nhưng giàu âm vang , bởi là
tiếng lòng của tác giả .Nhà thơ luôn khao khát bắc nhịp cầu giữa thơ và người
đọc , nên không dừng ở việc tả cảnh,tả tình thuần túy, mà dường như mỗi bài có một địa chỉ
người nhận cụ thể .
Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì
tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng là hiện tượng vật lý, lại là
biểu tượng của một tình yêu nam nữ, bắt nguồn từ những rung động và tỉnh táo của hai người trẻ , tạo nên sự gắn
bó , thủy chung , mãnh liệt và bền vững trước thời gian .
Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta
thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Sự chân thành, thắm thiết ,thủy chung trong tình
yêu nam nữ, cũng là những phẩm chất đạo đức cao đẹp của người phụ nữ mọi thời
đại .
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những
năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt,
khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân
ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt
bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con
gái trong tình yêu.
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Ngày đêm không ngủ được”
Đọc xong bài thơ Sóng ta càng ngưỡng mộ
hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thủy chung, luôn sống
hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu
lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.
a
No comments:
Post a Comment