-
A KHÁI NIỆM:
I.
THỂ LOẠI:
1.
Nguồn gốc : . Thơ tám chữ là thể thơ mỗi câu thơ có tám chữ. Theo nhà
nghiên cứu thơ mới Hoài Thanh , thể thơ này có nguồn gốc từ ca trù . Ca trù là dạng
nghệ thuật biểu diễn dùng nhiều thể văn chương như thể phú, thể truyện, thể ngâm, nhưng thể văn chương phổ biến nhất là hát nói. Ca trù ( hay còn gọi là hát cô đầu, hát ả đào, hát nhà
tơ, hát nhà trò- thể thơ đậm màu sắc dân tộc) là một loại hình diễn xướng bằng
âm giai rất thịnh hành tại khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, rất thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca
trong cung đình và được giới quý tộc và trí thức yêu
thích. Ca trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc.
Một
số nhà nghiên cứu còn cho rằng thể thơ này
từng chịu ảnh hưởng thể sonnet ( thi khúc ) của phương Tây, số từ trong câu dao động từ bảy và tám.
Good friend, for
Jesus' sake forbeare (Tránh xa nấm
mồ của ta)
Blessed be the man that spares these stones( Người nào gìn giữ và
không động đến mộ ta sẽ được phước lành.)
, (Shakespear)
Oh!
combien de marins, combien de capitaines(bao nhiêu thủy thủ, bao nhiêu thuyền trưởng)
Combien ont disparu, dure
et triste fortune! (Có bao nhiêu đã biến mất, khó
khăn và buồn may mắn!)
(Victor Hugo và Đêm đại dương.. )
I'm going out
to clean the pasture spring(Tôi ra đi dọn đồng cỏ mùa xuân)
;I'll only stop
to rake the leaves away(Trên đồng cỏ tôi sẽ cào lá rụng)
(The Pasture- nhà thơ Mỹ Robert Frost)
Thể
thơ tám chữ được cách nhà thơ mới sáng tạo trước năm 1936 ( trước khi ông Thao Thao đề
xướng ) Vần liên chân được tận dụng, nhưng yêu vận (vần giữa câu ) hầu như biến mất .
2. Đặc điểm : Ở đây,
chúng ta chú ý đặc điểm: thơ tám chữ được hình thành từ ca trù , gồm bốn thể văn chương như thể phú, thể truyện, thể ngâm, hát nói mà tạo nên .
- Phú theo nghĩa đen chủ yếu là thể văn tả cảnh. và liên kết với nội tâm để
tả tình. Số chữ từng câu trong
bài phú có thể là bốn, năm hoặc bảy Phú
lưu thủy là dạng phú không hạn chế số
chữ, có khi lên mốc tám , gần như văn xuôi.
- Truyện gắn liền với
động tác kể : ai? Làm việc gì ? Ở đâu ?
Lúc nào ? truyện gồm có nhân vật, có tình tiết .
-Ngâm
khúc gắn liền với thể thơ song thất lục
bát. Câu song thất vần trắc xen câu lục bát vần bằng; có vần chân và vần lưng
khiến cho âm điệu xoắn xuýt, thích hợp với nỗi lòng ai oán, thương xót sầu muộn , nỗi buồn thăm
thẳm da diết . Ngâm khúc thường dùng nhiều
tiểu đối và từ Hán Việt cho câu thơ tha
thiết trang trọng.
- Hát nói. là một làn điệu của hát ả đào( Hát ả đào
gồm nhiều làn điệu có hình thức văn học và âm nhạc hoàn chỉnh nhất ). Xét về mặt văn học, hát nói được xem là một thể thơ cách
luật , nội dung ngợi ca .Số từ trong câu thường là tám .
- Thơ tám
chữ còn ảnh hưởng phép tắc tu từ, thanh vận của thơ hiện đại phương Tây
3.
Định nghĩa : ta có thể hiểu thơ tám chữ và là
hướng để đọc thể thơ này :
-
Mượn câu bát trong thơ song thất lục bát ,
trong phú và trong hát nói , nhưng chỉ chọn vần chân .( Thể thơ song thất lục bát có vần lưng) , mượn
nhịp điệu ( cao thấp ) tiết tấu ( nhanh
chậm ) luôn thay đổi và phóng túng của hát nói
-
Mượn nội dung kể truyện (truyện) tả
cảnh ,tả tình ( phú ), mượn nỗi lòng ai oán, , nỗi buồn thăm thẳm da diết ( ngâm
khúc ), hoặc nhiều cung bậc cảm xúc ngợi ca
của phú và hát nói.
II. Các nhà thơ
và tác phẩm nổi tiếng:
1 Thơ mới: Có
rất nhiều bài thể thơ tám chữ : Xuân
Diệu (Vội vàng,Tương tư chiều, Lời kỹ nữ … ) Huy Cận (Đi giữa đường thơm, Nhạc
sầu ..)Tế Hanh ( Quê hương, Ao ước ) Chế Lan Viên (Đêm tàn, Trên đường về )Đoàn
Văn Cừ ( Chợ tết )Anh Thơ (Chiều xuân) Hàn Mặc Tử(Trường tương tư, Đêm xuân cầu
nguyện, Ra đời… )
2.
Thơ hiện đại : Tố Hữu ( Mùa thu
mới , Người con gái Việt Nam) Trương Nam Hương ( Cảm nhận chiều Dalat, Xa lắc
mùa thu )Lê Minh Quốc (Nhớ Đông Ky
Sôt)Phan thị Thanh Nhàn (Hà Nội mùa thu , Rồi có thể)
B.CÁCH ĐỌC HIỂU
BÀI ĐÒ LÈN (Nguyễn Duy )
I.
MỘT SỐ YÊU CẦU :
1.
Nhà thơ kể lại cuộc đời người bà qua những hồi
ức tuổi thơ được sống bên bà
- cháu hồn
nhiên ,nghịch ngợm, luôn động đậy chân tay ( bắt chim, trộm vải, trèo tượng
Phật, đi câu,đi chùa )
- bà vất vả
mưu sinh , tay chân luôn không ngơi nghỉ ( mò cua xúc tép, gánh chè, bán trứng
, đi lễ đền )
- cả hai sống trong nghèo khó và chiến tranh ( đi chân đất, củ going luộc
sượng, bom Mỹ dội bay nhà )
- có một niềm
tin vào thần thánh tiên phật ( mùi huệ trắng,nhang trầm thơm )
- cháu đi bộ
đội- bà cũng đi về với tiên phật
2. Nhà thơ tả nhiều về bà, ít về mình :
- níu váy bà : Bàn tay
cháu thật nhỏ bé, chiếc váy là biểu tượng
của phụ nữ nông thôn Miền Bắc xưa , là sự tần tảo, cần cù, hy sinh, nhân ái,bao dung mà
dành cho cháu.
- thập thững : lê những bước cao, bước thấp, liều lĩnh, mò mẫm trên con đường
lầy lội, trong đêm tối, giá buốt, đói lạnh, đường xa,gánh nặng nhọc, cô đơn âm thầm , sức khỏe của bà
thì không còn nhiều gợi nỗi xót thương
của người cảm nhận
3. Giòng
cảm xúc:
- chế giễu,trách móc sự hồn nhiên,vô tâm đầy
con trẻ của mình
- thương
yêu bà
- biết ơn
bà
3 .Vần : Cả bài thơ có cách
gieo vần dựa vào âm của các địa danh : chợ Bình Lâm, chùa
Trần, đền Sòng, đồng Quan, ga Lèn , những từ ngữ liên quan
đến tôn giáo tiên phật thánh thần, chùa chiền, cô đồng và từ tả thời tiết rất ấn tượng đêm hàn. Âm hưởng dư vương ở những từ đồng âm khói trầm thơm, điệu hát văn như quyện chặt với những vần
khép và ôm của bài, chở theo một cảm xúc gắn bó ,,thiết tha .Đây là lối gieo vần của
thể thất ngôn trường thiên, chỉ một vần duy nhất, tạo không khí bi tráng của
thể hành .
- vô số địa danh
được nhắc đến, ở huyện Hà Trung( quê ngoại tác giả , tỉnh Thanh Hóa ) và thành
phố Tam Điệp ở tỉnh Ninh Bình . Tác giả chỉ dừng lại ở đó, nhưng chúng ta
thấm thía nỗi khát khao no đủ, yên
bình trong lòng bà và biết bao khó nhọc
bà phải trải qua, cũng là niềm thương, nỗi buồn của nhà thơ dành cho bà .
1.
Từ ngữ :
- Đò Lèn : Khu vực Đò Lèn (khoảng 3 km2)
có Cầu Đò Lèn nhà ga, hệ thống kho hàng, bến bãi, trường học, bệnh xá, cơ quan
nhà nước và khá đông dân cư.. Nhà
thơ sống ở dãy nhà không số, mái rạ xen
lẫn mái ngói. Người dân phố Lèn lúc bấy giờ kiếm sống bằng đủ thứ nghề. Sông Đò Lèn là một nhánh của
hạ lưu sông Mã chảy qua địa phận huyện Hậu Lộcvà Hà Trung(quê ngoại ) rồi đổ ra
biển. Cầu Đò Lèn là huyết mạch giao thông quan trọng trên quốc lộ IA và đường
sắt Bắc-Nam Ga Lèn
là sân ga xe lửa bên bờ sông Lèn
-Tác giả : Nguyễn Duy tên là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, tại quê ngoại huyện Hà
Trung, lớn lên theo cha về sống tại phường Đông Vệ, TP. Thanh Hóa. Năm
1966, ông nhập ngũ làm lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu
nhiều năm trên các chiến trường đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào,
chiến trường miền Nam, biên giới phía Bắc (năm 1979).
. Xuất ngũ ông theo học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
. Xuất ngũ ông theo học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói như sau: "Hình hài
Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên
đám đất hoang đó."
4. Nhân vật trữ tình : Đọc kỹ bài thơ , ta thấy tác
giả kể lại những chuỗi ngày sống bên bà , từ lúc còn rất bé , khoảng lên năm (
níu váy ) cho đến tuổi biết leo trèo ,
nghịch ngợm ( leo lên tượng Phật, trèo
cây trộm quả )rồi tuổi thiếu niên ( đi
xem lễ cúng trên đền ) Ông sống hồn
nhiên, vô tư. không bận tâm đến sức mạnh
thần linh và nỗi vất vả của bà
Năm 1982,
lúc này ở tuổi tam thập nhi lập,
thấu hiểu phần nào lẽ đời, người bà đã
đi xa, người cháu mới “ nhìn thấy” : cuộc sống đầy lao
khổ của bà vì cháu. Bà qua đôi mắt của người cháu từ bé đến lớn là một người
xuất thân thuộc giới lao động
nghèo ( tần tảo nhiều nghề ở phố thị lẫn nông thôn để mưu sinh , cuộc sống thiếu thốn) có
một đức tin mãnh liệt vào thế giới thần thánh, bà rất yêu thương cháu .
Ở đây, nhân vật trữ tình là tác giả . Người bà là hình tượng
cao đẹp để tác giả bày tỏ nỗi niềm .. Có một nhân
vật để tác giả bộc bạch tâm sự ,
đó là độc giả .Vì vậy mà ông xưng “ tôi “ thay vì “ cháu”
II. ĐỌC HIỂU :
1
.
C uộc sống trong đời thường của hai bà cháu :
- Người bà xuất hiện
vơí trang phục truyền thống của người
phụ nữ xưa ( mặc váy) Quần không đáy, "vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên
Tàu thì không", Nhà thơ Anh Thơ đã viết “Quanh bếp ấm nồi bánh chưng sùng sục, Thằng cu con dụi mắt cố chờ ăn Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen rức, Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm (Đêm ba mươi tết, 1941) Từ “váy” với thời điểm của tác
giả , những năm 1950, có thể hiểu nhiều
nghĩa : người bà luôn có ý thức gìn giữ
phong tục tập quán đẹp đẽ của người phụ nữ xưa ( lam lũ, hy sinh, lạc quan ,giàu
lòng nhân ái ,sống đức độ ). và rất
nghèo . Danh từ váy còn mang giá trị
hoán dụ, chỉ cả con người bà, tấm lòng yêu cháu bao la của người bà hẳn tuổi đã
ngũ tuần . Từ “ váy” còn cho thấy sự lam
lũ,vất vả của bà vì mưu sinh : mò cua xúc tép, đi gánh chè lá,
đi bán trứng . Bản thân cụm từ “mò cua xúc
tép” gợi lên bao gian khổ . Thành ngữ “ mò cua b ắt ốc” thường gắn liền với
cuộc đời những người lao động nghèo, không có đất sản xuất, phải làm công việc ở thế cùng đường ( vô nghề đi tát, mạt
nghề đi câu). Hai câu thơ “bà đi gánh chè xanh Ba Trại ,Quán
Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn” dưới hình thức là một câu
thơ vắt giòng , bởi chỉ có một chủ ngữ ( bà ), nhưng để rõ nghĩa, cần phải bổ
sung một chủ ngữ “ Dáng bà thập thững
những đêm hàn”. Chè xanh Ba Trại ở vùng
Tam Điệp (Ninh Bình) là một loại chè ngon nổi tiếng có lịch sử lâu đời
từ vài trăm năm trước (Muốn ăn cơm trắng cá mèThì về Ba Trại hái chè với anh".). Nhưng vùng này , khoảng những năm trước 1960( khi tác giả còn bé ) đền Quán
Cháo( xứ Đồng Giao ) là một miếu thờ nhỏ lọt thỏm giữ bốn bề lau lách. .... Nhắc đến Đồng
Giao Quán Cháo hồi ấy, người ta nghĩ ngay đến hổ. Hổ dữ đã trở thành nỗi khiếp
đảm với người dân bản xứ và những công nhân Nông trường Đồng Giao Con đường
trước cửa đền – bây giờ là QL1A- một lối mòn nhỏ nằm vắt qua một con suối lớn
chảy từ Hoà Bình về, mùa mưa lũ hay mưa phùn vào đông thì lầy lội , việc qua lại rất khó khăn. Bà “ thập
thững” , lê những bước cao, bước thấp, liều
lĩnh, mò mẫm trên con đường lầy lội,
trong đêm tối, giá buốt, đói
lạnh, đường xa,gánh nặng nhọc, cô đơn âm
thầm , sức khỏe của bà thì không còn nhiều gợi
nỗi xót thương của người cảm nhận. Câu thơ chín chữ, có thể thừa từ “
những” nhưng chính từ những mới cho thấy
sự lam lũ triền miên , đi cùng từ
“ đêm hàn” ( thay vì đêm đông ) càng thấm thía sự hy sinh to lớn của bà vì con,vì cháu. Những địa danh này ở tận Ninh
Bình, vùng giáp ranh với Hà Trung, Thanh Hóa, mới biết bà lặn lội xuôi ( đi mò cua ở đồng nước ) lên ngược (
lên dãy núi Tam Điệp ) để mưu sinh . Ai qua Quán Cháo - Đồng Giao.
Má hồng để lại, xanh xao theo về”. Câu ca ai oán ấy nói về một thời hoang vu
của vùng đất Tam Điệp (Ninh Bình) Không rõ bà
đi gánh thuê cho người ta để lấy tiền
công hay đi buôn và tự mình gánh về Hẳn
là bà ở vị trí thứ hai. Dáng “ thập thững” của bà thật ám ảnh biết bao.
Rồi bà đi bán trứng . Hình ảnh này khiến chúng
ta nhớ đến bài ca dao Mười cái trứng. Người nông dân chắt chiu mua về, nhưng
đem ấp thì bảy trứng ung, ba con nở ra thì “ con diều tha, con quạ bắt, con cắt xơi” . Nhưng chủ nhân vẫn lạc quan
: Chớ than phận khó ai ơi, còn da lông mọc còn cồi nẩy cây”. Câu thơ này
nằm cuối một đoạn thơ đầy đau thương, căm hận Bom Mỹ giội nhà
bà tôi bay mất , Ngày 03/4/1965, từng tốp máy bay Mỹ từ phía biển xuất hiện, gầm rú như xé nát
bầu trời, trong chốc nhát bổ nhào ném bom đánh phá dữ dội khu vực Cầu Đò Lèn,
nhưng không làm người bà nao lòng: bà tôi đi bán trứng ,ở ngay nơi ác liệt
nhất. Bà là người phụ nữ kiên cường .
Nhà thơ
đã đúc kết tất cả sự lao nhọc, vì yêu thương người khác , cả cái nghèo của
bà bằng một từ đầy lòng tri ân
: bà tôi cơ cực thế Cơ là đói kém,mất mùa , cực là sự nghèo khổ, lao động nặng nhọc.Phó
từ “ thế” (lắm, rất )như tô đậm cuộc
sống khó khăn,vất vả, thiếu thốn của bà,
mà tất cả cũng vì cháu mình , nhà thơ
đấy . Ở đây, có nét
nổi toát hiện lên từ trong
con người bà : rất thương yêu cháu Vẫn thấm thía câu “ tình ngoại mang nhiều máu
mẹ”
- Tình cảm cháu dành cho bà như thế nào ? Nhà thơ liệt kể một kỉ niệm đẹp bên bà “ níu váy bà đi chợ” . Biết bao ý nghĩa ở từ này. Níu là động từ ở đây có nghĩa là “ kéo xuống, nắm giữ thật chặt, không dám buông ra vì sợ, nhưng thích thú, yên tâm ,vui mừng vì đó là “váy bà” . Níu váy đi chợ thì ắt hẳn sẽ có quà bánh . Cuộc sống thiếu thốn trong chiến tranh ( đi chân đất xem lễ, củ giong luộc sượng) đất nước không có sự yên ổn (bom đạn giặc ), mà cháu lại vô tư, hồn nhiên sống, có lẽ nhà thơ khi ấy chưa ý thức được , “ đâu biết bà cơ cực thế”, cứ thản nhiên tận hưởng cuộc sống (quà bánh,leo trèo nghịch ngợm, bên những trò đùa tuổi thơ rong chơi trong khi bà vô cùng gian nan vất vả kiếm sống . Hàng loạt động từ bên cạnh từ níu : ra cống Na câu cá, bắt chim sẻ trộm nhãn , lên chơi đền ,đi đêm xem lễ , mà không hề có một câu nào kể lại hành động giúp đỡ bà, cũng không hề có một lời nhắc nhở, trách mắng của bà về lỗi lầm của đứa cháu. Có thể vì hiểu cháu vắng bố mẹ bên cạnh, hơn nữa,cái quan niệm dân gian “Cháu ngoại vác mai qua mồ” hay “ cháu bà nội , tội bà ngoại” lại có câu “ cháu hư tại bà” ám chỉ những bi kịch bà và cháu ngoại. Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế Mà cháu lại vô tư, hồn nhiên sống, có lẽ nhà thơ khi ấy chưa ý thức được
2. Quan niệm về tâm linh của bà và cháu :
- bà thường viếng chùa ( có Phật bà
quan âm ) đền ( thờ Mẫu ) để phó thác cuộc
đời gian khổ của mình và cháu ,
để cầu mong các quyền năng bảo trữ và che chở con người của thánh thần . “ Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh”. Người xưa từng ngưỡng
vọng và bà của nhà thơ cũng có một niềm tin như thế . Đền Sòng, tín ngưỡng thờ
Mẫu Việt Nam là một tôn giáo bản địa ,lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần
tượng . Mượn hình ảnh Đền, Cô đồng, tác giả như muốn nói cuộc sống an phận,
nhưng muốn đề cao bà ngoại,một biểu tượng của người phụ nữ, Thánh Mẫu giàu lòng
nhân ái, hy sinh , ngày đêm bảo bọc chở che nhà thơ .Hoa huệ trắng đại diện cho lòng trung thành, tái sinh và tinh khiết,
mang những phẩm chất cao đẹp của
phụ nữ( cần cù, giản dị, hy sinh ), giải tỏa nỗi đau trong lòng khi có sự mất mát ,
khát vọng no đủ cũng để ca ngợi bà mình . Hai câu thơ có
cùng những hình ảnh và cảm nhận “mùi huệ trắng quyện
khói trầm thơm lắm
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm.” như càng tô đậm tấm lòng tin tưởng vào thần linh của bà , đấng tối cao có sức mạnh bảo vệ người ngay lành, đuổi ma quỉ đi xa
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm.” như càng tô đậm tấm lòng tin tưởng vào thần linh của bà , đấng tối cao có sức mạnh bảo vệ người ngay lành, đuổi ma quỉ đi xa
- người cháu có vẻ thờ ơ
với đức tin của bà , cho rằng mình “trong suốt giữa
hai bờ hư - thực, giữa bà và tiên phật thánh thần”. Trong suốt là một tính từ miêu tả, chỉ một vật
như gương có thể nhìn thấy tất cả bên
trong , nhưng đây lại mang ý nghĩa tâm trạng: sự vô tâm , thiếu đức tin tôn giáo của người cháu Thaí
độ này càng lộ liễu khi chàng trai tuổi
lộc ngộc nhận thấy
thần thánh không thắng được ma quỉ, bom đạn “Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất ,đền Sòng bay
bay tuốt cả chùa chiền ,Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết” .Một loạt cụm từ đồng nghĩa “nhà bay mất, đền chùa bay
tuốt, Thánh Phật đi đâu hết” Các đấng bậc
thần linh tạo cho nhân dân một sự tin cậy vào sức mạnh siêu nhiên của họ (
tránh nghèo đói, tai ương, bom đạn )là
cõi hư vô này đã thỏa hiệp với nhau ( rủ nhau) quay
lưng trước nỗi khổ vô bờ của dân lành , yếu
thế trước bọn giặc vô cùng tàn bạo . Dường như nhà
thơ không chế giễu tấm lòng trông
cậy mãnh liệt của người bà già nua trước
thần phật mà tỏ thái độ. chất chứa nỗi chế giễu, khinh bỉ và căm giận kẻ
thù gây ra cảnh tàn phá này . Nhưng đây là động cơ thôi
thúc anh ra trận .Anh , người cháu trai
tráng mới có thể bảo vệ bà, chứ không có
tiên phật nào cả .
Tuy nhiên, ý nguyện của bà
là mong anh nhận được sự bình an trước
thánh thần , khi vui chơi, khi đói khổ “cái năm đói củ
dong riềng luộc sượng,cứ nghe thơm mùi huệ
trắng hương trầm hay “chân đất đi đêm xem
lễ đền Sòng ,mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm” Trầm hương là một phần không thể thiếu
được trong các nghi thức tôn giáo, phong thủy và tâm linh. tẩy uế trừ tà.
3. Bây giờ, anh lại tìm đến bên bà :
-
cuộc số vẫn phải chấp nhận những qui luật mất mát,đổi thay( dòng sông vẫn bên lở bên bồi) . Một qui
luật buồn thương khác là bà anh chỉ đi với anh một quãng đường thôi, nay bà đã về với tiên
phật.
- nhưng anh lại muốn có sự trái qui
luật nào đó : anh ân hận , day dứt, bởi
“ tôi Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”“khi tôi biết thương bà thì đã muộn”. Câu thơ
mang theo tiếng khóc nức nở của ngươi cháu .Lẽ
ra thuở còn có bà bên cạnh, anh phải hiểu bà nhiều hơn .
Cả bài thơ dồn lại
ở động từ vừa là cử chỉ, vừa là tấm
lòng, cũng là nhận thức “ biết thương bà” .
Cả cuộc đời bà, nhà thơ chỉ một lần
bắt gặp bà được thong dong, nhưng đó là thong dong trong đói kém ,
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng Củ dong riềng, một loại thực phẩm dùng làm bún miến; loại củ này luộc
rất lâu chín . Luộc sượng là luộc chưa
chín .Lúc thiếu thốn, gạo cơm không có, củi lửa cũng phải tằn tiện . Còn lúc nào tác giả cũng thấy bà tất bật, đi
chợ, đi mò cua xúc tép, đi gánh chè, đi bán trứng, cả tìm đến nơi
thiêng liêng có bà có cháu : đi chơi đền, chân đất đi đem xem lễ .tay cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm hay “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng ,mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm
lắm Và
lúc bà được ngơi nghỉ thì… bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi. Thương bà biết bao
nhiêu!
KẾT LUẬN :
Suốt bài thơ, chỉ có một ngôn ngữ giản dị đến tận cùng, như lời ăn tiếng nói hằng ngày trong
chuỗi năm tháng từ tuổi thơ đến trưởng
thành của tác giả bên cạnh người bà thân yêu.
Bài thơ có
nhan đề Đò Lèn, là nói đến cả một vùng quê nghèo của mà giàu tình"; "đơn sơ mà phong phú"; "khổ cực
mà thông minh"; "anh dũng vô song"! Vùng đất "địa linh nhân
kiệt", vùng đất "phát tích của những vương triều"( tổ tiên triều
Nguyễn ) vùng đất "của những con người mở đất về phương Nam"; vùng
đất của những "danh thắng" nổi tiếng, vùng đất của những "đền
chùa miếu mạo"; vùng đất "cửa ngõ phía Bắc Xứ Thanh" , trong đó hiện lên một người phụ nữ Việt
Nam như một biểu tượng đẹp đẽ của tình thương, hy sinh, lam lũ, lạc quan , nghèo khó
Có thể mượn lại câu nói của nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn: "Tâm hồn tuổi thơ Nguyễn
Duy giống như đám đất hoang, còn trái
tim nhà thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý
mọc trên đám đất hoang đó."
Câu hỏi :
1.
Theo bạn, thơ tám chữ có nguồn
gốc từ đâu? Đặc điểm về nội dung, hình thức của nguồn gốc thơ này?
2.
Hãy định nghĩa thơ tám chữ (nội dung, hình
thức)
3.
Bố cục bài thơ Đò Lèn. Theo bạn, nên tổ chức
kết cấu bài thơ như thế nào có thể phục vụ tốt cho việc đọc hiểu thể thơ tám
chữ?
4.
Người bà trong cuộc sống hằng ngày hiện lên những phẩm chất gì ? Tấm
lòng người cháu ra sao ?
5.
Quan niệm về tôn giáo của bà và cháu ?
6.
Cách dùng từ
giản dị, nhiều địa danh mang tính
hàm súc cao, tính nhạc , tính hình
ảnh .Hãychứng minh và phân tích .
7.
Tác giả muốn nhắc nhở chúng ta những điều gì
qua bài thơ ?
( Dalat , tháng 6,2017 )
No comments:
Post a Comment