Monday, August 26, 2019

Bài 9 THỂ LOẠI TÙY BÚT NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ ( Nguyễn Tuân )


                         Bài 9
               THỂ LOẠI TÙY BÚT               
                    NGƯỜI  LÁI  ĐÒ  SÔNG  ĐÀ
                                             ( Nguyễn Tuân )
I.                   NHỮNG ĐIỀU LIÊN QUAN ĐẾN  VIỆC TÌM HIỂU TÁC PHẢM
1.     Chủ đề :      Trong chương trình Đọc Hiểu văn bản  cấp phổ thông trung học , hai tùy bút đặc sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại  Người lái đò sông Đà  Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường  từng được phân tích, khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau , để mục đích  cuối cùng không ngoài hướng tới trọng tâm của bài học :  Tình yêu , lòng ngưỡng mộ của Nguyễn Tuân đối với người lao động và con sông Đà; niềm tự hào Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương và  con người đất thần kinh có đời sống trí tuệ , tâm hồn phong phú
2.     Hướng khai thác Tùy bút    Dựa vào những đặc trưng cơ bản của thể tùy bút, chúng ta lần lượt kết hợp  ba bước về đối tượng chính của bài Tùy bút (1) một dữ liệu khoa học đời sống đối tượng (2) cách   mô tả đối tượng qua những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc (3)cảm nghĩ của tác giả .
3.      Bố cục tùy bút Người lái đò sông Đà 
      Ở tùy bút Người lái đò sông Đà  , chúng ta thấy nhà văn Nguyễn Tuân chọn bốn  đối tượng: hình dáng tổng quát của sông Đà , sông Đà hùng vĩ, con người  ông đò trước  con sông hung hãn đó, và phần còn lại trong tùy bút danh cho việc nêu cảm nhận về đoạn sông Đà thơ mộng.
II.                ĐỌC HIỂU :
1.     Về hình dáng tổng quát của sông Đà
  -   Do đặc trưng của thể Tùy bút, người viết hối hả ghi lại nguồn cảm xúc dâng trào , bằng lối hành văn mang đậm phong cách cá nhân, nhưng không hề quên dựa vào những cứ liệu khoa học rất chính xác . Về hình dáng tổng quát của sông Đà, ông thừa  hiểu rằng ai cũng biết sông Đà dài dài 983km (đoạn chảy trên đất Việt dài 543km) chảy quanh co qua Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ .Điểm cuối là ngã ba Hồng Đà, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.   trong cảm nhận của Nguyễn Tuân khi nhìn từ máy bay ,thì Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình,đầu,chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc . Lối so sánh  mang màu sắc liên tưởng có chút gợi cảm này đã biến  một hình ảnh tự nhiên trừu tượng qua những con số khô cứng, thành một biểu tượng đẹp về sông Đà- một người thiếu nữ khỏe mạnh, giàu sức sống. Yêu vẻ đẹp vốn    phong cách của Nguyễn Tuân .

 -  Về màu sắc nước sông Đà, tác giả tỏ ra giận dữ trước tên Sông Đen người Pháp đặt cho con sông này.  Hẳn người Pháp có nguyên cớ của họ . Do nhìn từ máy bay xuống, làn nước chảy qua nhiều vùng mà  ánh nắng chiếu xuống không thể len qua những  lớp lá rừng dày,  đáy chồng chất đá , rõ ràng phản chiếu một màu đen  .Người Pháp đã đặt cho sông Đà  cái tên  và mang tên này đi khắp thế giới  -Sông Đen  . Nhưng tác giả giàu tình yêu sông Đà, ông chỉ thấy nước sông Đà mùa thu nước lừ lừ chín đỏ ,mùa xuân dòng xanh ngọc bích .Nguyễn Tuân luôn  xem sông Đà như một thiếu nữ xinh đẹp .
        2.
Sông Đà hùng vĩ


  -  Bây giờ  , đứng trước đoạn sông Đà ở vùng thượng nguồn , tác giả tìm hiểu nguyên nhân khiến sông Đà “ác  như một mụ dì ghẻ ” là do Sông Đà  chảy qua vùng núi đá vôi của vùng rừng núi  Sơn La, Lai Châu nước ta nên lòng sông rất hẹp, nhiều ghềnh thác, nước chảy xiết, vô cùng hiểm trở  .Đó là sự kiện khoa học khách quan .Nhưng theo tác giả ,ông mượn câu hát ví von  “Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen”(Truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh)Lối lý giải đậm màu sắc dân gian,lối tu duy của ngừoi lao động Tây Bắc  .Thái độ “căm ghét ”sông Đà trong lòng tác giả  như nhân dân oán hận chàng Thủy Tinh, thật rõ ràng .
   - Sau đó , ông nêu lên  sáu thế hùng vĩ, hung bạo của Sông Đà .Mỗi thế , sau khi đưa cứ liệu khoa học, cây tùy bút nổi tiếng  này lại có lối miêu tả đầy ấn tượng, rồi gửi gấm tình cảm rất dễ tạo sự đồng thuận với người đọc .
       . Thế thứ nhất là đá bờ sông dựng vách thành .Không nêu con số vách thành cao bao nhiêu, nhưng ông viết “mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới thấy mặt trời” hoặc “ngồi khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, ” và ông liên tưởng đến một kẻ  đang đứng trong hẻm tối giữa hai tòa nhà cao tầng,  vừa ngóng cổ trông lên ô cửa tít lầu cao ,   cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện . Vách bờ sông Đà (hai bên là  núi đá vôi )cao như thế đấy .Cho nên,dù Nguyễn Tuân không trực tiếp nêu cảm xúc, người đọc vẫn thấm thía với tâm trạng  không dễ chịu chút nào của người dân khi đi đò qua  quãng sông này, đó là lạnh lẽo, tối tăm, pha  nỗi sợ hãi .
      . Thế thứ hai là lòng sông Đà vô cùng hẹp . Bề rộng bình quân của sông Hồng, con sông lớn nhất vùng đồng bằng Bắc Bộ là 788m , còn ở đây “nai hổ đã có lần vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia ” hay “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua vách bên kia ”, nghĩa là chỉ độ dăm mét . Hẹp thế, mà hai bên lại núi cao , đá cứng ,  làm sao nước thoát kịp giữa mùa mưa lũ,  làm sao mà lụt tràn không xảy ra! . Do độ dốc lớn và sức nước chảy xiết, sông Đà được các nhà nghiên cứu xếp vào loại "sông hung dữ bậc nhất ở Đông Dương".  Thủy Tinh thật tàn ác !. Đó là lối miêu tả với ngòi  bút liên tưởng rất cụ thể, chất chứa niềm cảm xúc phong phú.
     . Thế thứ ba là ghềnh.Ghềnh là  quãng bờ sông đầy đá lấn ra mặt nước sông . Ghềnh Hát  Lóong dài hàng cây số. Đó là cơ sở khoa  học . Dòng nước cuồn cuộn từ núi cao đổ về, va phải bờ sông không bằng phẳng mà  chỉ có đá xếp chồng chất,tràn ra mặt nước,cho nên “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Nước  trước những luồng gió núi đập vào bờ tạo thành sóng . Gió mạnh, đá chất chồng, sóng bỗng vô cùng hung tợn  cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm ”. Cách tả không thể nào giàu ấn tượng hơn nữa , bởi sóng, đá, gió bây giờ là những con quái vật bên sông và  núi ,  có hình có dạng  ,vô cùng  tàn bạo , hung ác . Hậu quả là   ông lái  đò nào qua đây mà không thận trọng thì bị “đòi nợ xuýt ”, ngay,  bụng thuyền  bị lật ngửa ra, người chủ con đò chết một cách oan uổng . Ta có cảm giác tác giả đang rùng mình,mặt kinh hãi, pha nét căm hờn con sông , lẫn cảm thương ông đò .
 .       Thế thứ tư là những giòng  sông  ngầm dưới đáy sông . Chúng ở đâu ? Ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La . Đó là những cái hút nước , giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu , tất nhiên   chúng nằm  song song với dòng chảy chính của sông Đà .Miệng những cửa sông ngầm vốn hẹp, nước tràn qua “thở và kêu như cửa cống bị sặc ”, nước xoáy tít ; thuyền  vô tình lọt vào cửa sông ấy, chẳng khác gì một chiếc lá  mong manh rơi  vào ly và  bị đũa khuấy thật mạnh. Tất nhiên chiếc lá sẽ bị đánh tả tơi . Thuyền thì sao ? Thuyền “trồng ngay cây chuối ngược , rồi vụt biến đi, đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau, mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.So sánh con thuyền với chiếc lá , là lối so sánh ấn tượng nhất , cụ thể nhất , dễ hiểu nhất về hình ảnh một chiếc thuyền mong manh  bị  khối nước  có cường độ không thể nào mạnh hơn nữa  uy hiếp, tấn công và tiêu diệt để nước tuôn đổ vào lòng   khúc sông ngầm, một dạng sông hiếm thấy ,chỉ gặp ở sông Đà .  Cửa con sông ngầm dưới đáy sông Đà là miệng một quái vật  hung tợn nhất ở trái đất này! Đó là cảm nghĩ của tác giả .
      Thế thứ năm, thác sông Đà . Thượng nguồn sông Đà thuộc xã Ka Lăng, huyện Mường Tè (Lai Châu) khởi nguồn từ độ cao 1.500m tại núi Nguỵ Sơn của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Sông Đà dài 983km (đoạn chảy trên đất Việt dài 543km), trong đó có 232km chảy trên địa phận tỉnh Lai Châu. Trong hơn 230km ấy có 170 thác và 130 ghềnh. Người Thái sinh sống ven dòng sông này gọi con sông là Nậm Tè (sông Thật). Thác đầu tiên trên dòng sông Đà có tên Kẻng Cớn (nghĩa tiếng Thái là đá mới lăn). Ngay cả mùa cạn nó cũng rất xoáh lại với sông Đà. (Báo Dân Trí ngày 14. 1.2010) Với Nguyễn Tuân,ông có cách nhìn rất cụ thể . Thác Sông Đà rất lớn, chiếm diện tích rất rộng, lại có cường độ dòng chảy rất mạnh Nhà văn so sánh : Sóng bọt trắng xoá cả một chân trời đá . Còn cường độ giòng chảy của thác thì thế nào ? Tác giả   không đưa ra con số cụ thể như các nhà khoa học , mà ông có lối ghi chép khác .Ông chọn tiếng nước  thác đổ, đó là  tiếng rống lồng lộn, gầm thét của một ngàn con trâu mộng bị bỏng lửa  giữa rừng tre nứa cháy  nổ  bùng bùng. Tả giòng nước thác ầm ầm đổ chỉ có thể mượn những  âm thanh chính xác nhất  này để về sự dữ dội ,ào ào tuông đổ không ngừng nghỉ  của thác Sông Đà .  Tác gỉa  bộc lộ chân thật cảm nhận  của ông về  cường độ dòng thác Sông Đà với lối liên tưởng cụ thể như thế . Một  nhà báo đã bộc lộ  đầy hài hước  về ấn tượng thác sông Đà .Những tên thác Kẻng Mỏ, Kẻng Mân, Kẻng Cớn chỉ nghe thôi đã thấy gai người... là những “đặc sản” chỉ có nơi thượng nguồn sông Đà . Cảm giác càng gai người khiếp sợ khi Nguyễn Tuân đang đứng sững sờ  bên chân  thác , một quãng ầm ầm mà quạnh hiu, một thế giới không thuộc về con người .
    .  Thế cuối cùng  , lòng sông Đà đầy đá . “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông , mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm  cả dậy để vồ lấy thuyền .”Đá tràn từ bờ sông, qua chiều ngang sông , đến ghềnh, đến sông ngầm,  hẳn nhiên không ít  nơi thác .Sông Đà là … Sông Đá .Mỗi tảng đá lòng sông Đà là một tên thủy tặc , cướp sông  vô cùng  tàn  độc  ,tinh quái, và  nham hiểm .
Các nhà khoa học đánh giá sông Đà bằng một cách nhìn mà chúng ta đã thấy có pha màu sắc ấn tượng : con sông hung dữ bậc nhất Đông Dương . Riêng với tùy bút này, Nguyễn Tuân giúp chúng ta thấm thía hơn khái niệm “hung dữ bậc nhất Đông Dương”ấy . Người đọc  sẽ nhìn sông Đà  ở góc độ  kẻ thưởng ngoạn thiên nhiên ,còn nhà khoa học đã  bắt gặp ở sông Đà nguồn than trắng, đem lại giòng điện to  dồi dào cho đất nước .
3. Con người  ông đò trước  sông Đà , dòng sông hung hãn
  a. Chiếc đò vùng sông Đà , phương tiện mưu sinh giá trị
         Sông bao giờ cũng mang theo những chuyến đò ngang,đò dọc . Nguyễn Tuân đã gặp những chủ nhân các chuyến đò ,con đò .Đó là những người lái đò dọc trên sông Đà . Những chiếc thuyền bề ngang chỉ độ nửa mét, dài chừng mười mét, hai mũi thuyền khá nhọn, cần ba người  khỏe mạnh với sáu tay chèo ,  rất phù hợp với địa hình có sáu thế hùng vĩ của một  con sông lắm ghềnh thác, lòng sông hẹp,bờ sông có những vách đá sừng sững , lòng sông chất chồng đá,  đáy sông có những giòng sông ngầm rất khủng khiếp . Hàng hóa từ thượng nguồn về xuôi ,qua hàng trăm cây số lênh đênh là chè khô ,mỗi bao năm mươi kilogam, chen chúc trên đò là bốn mươi bao và  ba con người, làm sao tất cả  thuận buồm xuôi gió, đặc biệt phải vượt qua hơn trăm con thác lũ , thì rất cần những ông đò tài năng, kinh nghiệm, yêu nghề .Nguyễn Tuân không đưa ra những phẩm chất ấy, mà ông chỉ ghi chép bằng ngôn ngữ riêng của mình, bằng nhiều thuật ngữ sông nước, bằng lối liên tưởng  ví von vốn  là đặc trưng của thể tùy bút, bằng lối cảm nhận rất riêng của ông , để  bày tỏ lòng ngưỡng mộ với tấm lòng một nhà văn yêu con người ,yêu cuộc sống, yêu quê hương .
 b.Ông đò, một  chiến binh  dũng cảm:
    Dưới con mắt Nguyễn Tuân, trước tiên ông đò, người cầm lái chính,thuyền trưởng con đò, là một  chiến binh  dũng cảm. Ở những trang tùy bút của mình,  tác giả dùng rất nhiều chi  tiết để ca ngợi ông , với những yếu tố gây ấn tượng nhất. Chẳng hạn , người chiến binh ấy thường xuyên chống chọi với đám “hung thần”  trên thác dữ sông Đà , thì trước hết ông phải kiên cường “Cữơi lên thác Sông  Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.  Cường độ dòng chảy của thác sông Đà rất mạnh, có thể khi đánh vào chỗ hiểm nhất trên người ông đò, như muốn tiêu diệt ông , sau khi đã bẻ gãy  cán chèo, đội úp thuyền .Lúc đó, ông đò phải “cố nén vết thương, tiếng chỉ huy ngắn gọn,tỉnh táo”.
       c.Ông đò giàu kinh nghiệm vượt thác :
   Như bao người lao động khác , ông đò có một tài năng hơn người, đó là kinh nghiệm .Theo tác giả , với trận chiến với giặc nước, ngoài sự dũng cảm của người lính, ông đò phải giàu kinh nghiệm  nắm chắc binh pháp thần sông thần đábiết rõ đặc điểm từng hàng sóng đá . Không ai ngoài những ông đò tuổi tác, khỏe mạnh, từng trải sông nước mới  biết được từng luồng sinh , luồng tử  trên sông Đà . Có lẽ Nguyễn Tuân đã cùng họ vượt thác ,đã “phỏng vấn”rồi ghi chép lại . Mỗi con thác sông Đà có ba cửa, mà tác giả dùng ngôn ngữ trận mạc gọi bằng “thạch trận vòng thứ nhất, nhì ,ba”. Chỉ ông đò mới biết mỗi vòng mở ra năm cửa, duy nhất một cửa sinh ,lại thay đổi . Phải biết vòng một,cửa sinh nằm bên tả ngạn con sông . Vòng hai, lại chệch qua hữu ngạn sông, vòng cuối cùng, cửa sinh chen vào chính giữa .Ông đò  từng trải biết rõ đặc điểm từng hàng sóng đá  trên vòng thạch trận . Vòng thạch trận thứ nhất ,  ông phải  nắm đựoc bờm sóng,mà rảo bơi chèo lên, Vòng thạch trận thứ hai  đè sấn lên, chặt đôi ra Vòng thạch trận thứ ba, ông đò  phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa .
      d.  Họ yêu nghề và rất khiêm tốn ,nhưng quý giá
      Với các ông “ cuộc sống là giành lấy cái sống từ tay thác ,không có gì là hồi hộp đáng nhớ”  sau khi họ đã vượt qua biết bao con thác,với những cái tên nghe gọi đã thấy  kinh hoàng .  Câu chuyện họ trao đổi vẫn là “cá dầm xanh cá anh vũ” , loài cá sống nơi rất xa của Sông Đà, không có bóng người sinh sống, những nơi sông Đà cuồn cuộn chảy, những vách đá lừng lững, những khối đá đầy hình thù kì dị . Cá  không ăn mồi ,chỉ đi hút rêu , khoáng sa ở dưới  vực sâu nước chảy, đáy có đá dưới lòng sông  suối , đẻ trứng trong hang tận đáy sông ,nhưng  có giá trị đặc biệt, được xem là loài cá quý với danh hiệu cá tiến vua.  Họ yêu nghề và rất khiêm tốn ,nhưng quý giá như những chú các anh vũ, dầm xanh, những phẩm chất cao quý của người lao động Á  Đông và Việt Nam .
  e. Những diễn viên xiếc tài ba:
    Trong mắt Nguyễn Tuân, những ông đò sông Đà còn là những diễn viên xiếc tài ba .Do phải vượt qua ba hàng thạch trận  và phải chọn cho bằng được cửa sinh để thuyền thắng sóng,  mà các cửa sinh không cùng nằm trên một đường thẳng , chúng từ trái ,quẹo sang phải, rồi lao vào chính giữa .  Hàng thạch trận thứ nhất, cửa sinh bên tả, ông đò bắt buộc không nghỉ mắt nghỉ tay; hàng thạch trận thứ hai , cửa sinh bên hữu ghì cương lái,lái miết một đường chéo ; hàng thạch trận cuối cùng,
( hàng 2 )Cửa sinh bên hữu, ghì cương lái,lái miết một đườngchéo , ông đò điềm nhiên đưa thuyền vượt qua  . Tất cả mọi tư thế cần uốn lượn như diễn viên xiếc, thuyền như mũi tên tre,tự động xuyên, lái, lượn vút,vút,cửa ngoài,cửa trong,trong cùng .Tác  giả đã  ghi chép cảnh vượt thác của ông,bằng ngôn ngữ sống động, nhiều thuật ngữ sông nước , sinh động, hóm hỉnh,để bày tỏ lòng  ca ngợi ba   nét của ông đò,thứ vàng mười của Tây Bắc.Ta cũng  rất tự hào về họ từ khi đọc thiên tùy bút này
4.     Sông Đà  thơ mộng
    a. Dòng chảy :     Chảy về đồng bằng(từ Hòa bình về Việt trì, dài gần 75 km )mặt sông Đà thoáng,êm đềm tràn ngập sương mù,nắng ,cảnh quen thuộc  của  mọi con sông  trên đất nước Việt Nam .
Tác gỉa  liên tưởng đến tứ thơ Đường của Lý Bạch về sông Trường giang (yên hoa tam nguyệt :tiết xuân tháng ba, trên sông hoa khói )cảnh sông thật thơ mộng.Gặp khúc sông về xuôi ,như
gặp lại người yêu ,một thiếu nữ bớt hờn dỗi. Cách mô tả , ví von cũng làm người đọc thấy lòng dịu lại, sau những giờ phút   vất vả tham quan vùng thượng nguồn sông Đà , hay gồng mình ,thót tim vượt thác cùng các ông đò sông Đà .
b.  Ven bờ : Cảnh vô cùng êm ả,vắng lặng, sự sống nảy sinh , không còn thác đổ ầm ầm, không còn những con thuyền đuôi én vượt thác gian nan Đây là  cảnh ở quãng “Đà giang độc bắc lưu”(nhập vào song Hồng) Bên bờ :Cảnh lặng tờ, bờ sông hoang dại như thời tiền sử ,lá ngô non mới nhú, cỏ tranh đang ra những nõn búp, con hươu thơ ngộ :không có bóng người,nhưng có dấu hiệu con ngừoi sinh sống. Cách dùng từ mới lạ( tịnh không,thơ ngộ )Bờ Sông Đà là một em bé đáng yêu .
 b. Mặt sông : Dưới sông có con thuyền  lững lờ trôi , cả không gian và  mặt nước êm ả, khiến người ngoạn cảnh nghe cả tiếng cá quẫy đuôi, giọng ngừời nói êm êm,không gào thét thi đua cùng thác lũ ,  con đò mình nở chạy buồm vải , bởi gió lộng,vùng nước rộng và êm đềm . Tất cả khiến  tác giả liên tưởng đến một thiếu nữ tươi tắn (mình nở ) dụi dàng(giọng êm )
SĐ quãng về xuôi đựơc Nguyễn Tuân  cảm nhận như một “cố nhân”,bớt giận dỗi, điệu đà ( sắc nước ),tưoi tắn, dịu dàng.Ngôn ngữ giàu chất thơ.Đây là vùng Sông Đà “bắc lưu” ,êm ả như bao con sông ở  đồng bằng Việt Nam .

III.             KẾT LUẬN
       Qua những trang tùy bút, học sinh có cơ hội tận mặt sông Đà, con sông hùng vĩ của đất nước .
                          (Dalat 07.2014 )

   


No comments:

Post a Comment