Monday, August 26, 2019

Bài 20 b THƠ BẢY CHỮ TỪ ẤY ( Tố Hữu )



Cùng một thế hệ  với các nhà Thơ Mới nổi tiếng ( Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử ) nhưng  Tố Hữu chọn xu hướng sáng tác phục  vụ nhân dân,với quan điểm “ nghệ thuật vị nhân sinh” . Năm 1935, lúc nhà thơ  vừa tròn 15 tuổi, Phong trào Mặt trận Bình dân Pháp lên cao, lập được Chính quyền mới ở Pháp theo xu hướng cánh tả. Nhiều nhân vật của Đảng Cộng sản Đông Dương lúc bấy giờ như Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Hải Triều, Nguyễn Chí Diểu, Bùi San,... đã giác ngộ Tố Hữu đi theo con đường cộng sản. Từ đó, ông có cơ hội tiếp cận với nền văn học cách mạng tiến bộ trên thế giới ,văn học cách mạng Nga , Pháp . Tác phẩm "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" của Các Mác - Ăng-ghen và bộ "Tư bản" của Các Mác cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng và suy nghĩ đang hình thành của Tố Hữu
Từ ấy là tập thơ đầu của  Tố Hữu, được sáng tác trong khoảng 10 năm ( 1937 đến 1946). Xuất bản lần đầu năm 1946 với nhan đề Thơ , năm 1959 tái bản  có nhan đề "Từ ấy", bắt nguồn từ  câu thơ: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, mặt trời chân lý chói qua tim.
Từ ấy gồm 71 bài thơ tập hợp trong 3 phần tương ứng với ba giai đoạn lịch sử: Máu lửa (27 bài), Xiềng xích (30 bài) và Giải phóng (14 bài), thông qua chặng đường hoạt động 10 năm của người thanh niên cộng sản Tố Hữu. Bài thơ “ Từ ấy”  được trích trong cụm thơ này .

Máu lửa có  27 bài thơ được sáng tác trong  2 năm (1937 -1939). Trong thời gian này, Mặt trận Dân chủ Đông Dương đang phát triển mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương .Trên thế giới, phong trào chống phát xít, bảo vệ dân chủ và hòa bình thế giới diễn ra sôi nổi. Với  Tố Hữu, giai đoạn này  ông  được gặp gỡ lý tưởng cộng sản và trở thành một người chiến sĩ hăng hái, một người lãnh đạo phong trào thanh niên dân chủ ở Huế.
 Máu lửa biểu hiện tiếng reo ca náo nức của một tâm hồn trẻ khát khao lẽ sống đã gặp lý tưởng cách mạng, mà bài thơ Từ ấy là một điển hình.
Phần Xiềng xích gồm 30 bài sáng tác trong thời gian tác giả bị giam tại nhà tù đế quốc từ ( 1939 đ- 1942.) Phần này như một bản quyết tâm thư của người chiến sĩ trẻ tuổi tự nhủ với lòng mình không khuất phục trước súng đạn và sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù, không nản chí trước mọi khó khăn trở ngại.
 Phần Giải phóng gồm 14 bài, sáng tác  từ 1942 đến 1946. Đây là những năm tháng khi nhà thơ vượt ngục và sống trong không khí sục sôi cách mạng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
Bài thơ “ Từ ấy”  ra đời vào tháng 7. 1938   Tố Hữu  gia nhập Đoàn Thanh niên Dân chủ năm 1936 và 1938 gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Có lẽ đây là cảm xúc sâu đậm, mãnh liệt và chân thành của nhà thơ, một chiến sĩ cộng sản ghi lại  trong những ngày ông vừa được bước chân vào hàng ngũ  của Đảng cộng sản , sau khi trải qua một thời gian thử thách .
Về hình thức, tác giả vận dụng thể thơ mới như các nhà thơ  trẻ trong giai đoạn này.Dù vẫn giữ thể thơ thất ngôn tứ tuyệt truyền thống,nhưng cách hiệp vần phong phú (dùng nhiều vần như trong thơ cổ phong trường thiên: vần liên tiếp, vần gián cách). Nhịp điệu linh hoạt, giọng thơ sôi nổi, kêu gọi; đó là sự giao thoa giữa thơ dân gian ( song thất ) thơ Đường ( thất ngôn ) thơ mới ( thơ sonnet), ngôn ngữ giàu hình tượng và cô đọng và cảm xúc .Chính sự kết hợp Đông -Tây nói trên đã tạo nên bản sắc dân tộc và sức hấp dẫn riêng của Thơ mới và bài   thơ Từ ấy nói riêng .
Chính từ  hình thức nghệ thuật độc đáo này,nên dù bài thơ là nguồn cảm xúc  mang hơi hướm lý tưởng và màu sắc chính trị, nhưng hình ảnh, ngôn từ, nhạc điệu, giọng điệu dạt dào chất thơ , làm người đọc hứng thú . HÌnh thức và nội dung tư tưởng đẹp đẽ này đã từng lôi cuốn biết bao con người trẻ   đứng lên đi theo Đảng, dấn thân vào con đường đấu tranh cho sự  nghiệp giải phóng dân tộc .
Bài thơ có ba khổ,  gọn ghẽ như mọi bài thơ  mới thời bấy giờ, và tư tưởng trong thơ cũng rất mới Ở khổ một , câu chú ý là câu thơ thứ hai : Mặt trời chân lý  chói qua tim . Mặt trời chân lý là một hình ảnh ẩn dụ .Mặt Trời là ngôi sao ở trung tâm và  bật nhất trong Thái Dương Hệ .Khối lượng khổng lồ của nó (332.900 lần khối lượng Trái Đất)[15] tạo ra nhiệt độcực đại trong dải quang phổ vô cùng  lớn  mà chúng ta gọi là ánh sáng khả kiến. Còn chân lý là sự thật có trong tự nhiên, như một quy luật, không phải do con người tạo ra   Có  thể hiểu rằng chân lý cách mạng là một  điều rực rỡ, đẹp đẽ như mặt trời, được nhiều người thừa nhận.  Tim là  bộ phận chính trong cơ thể  đóng vai trò  sự tuần hoàn, chuyển dịch  máu huyết . Tim mang  sự sống thể chất và tinh thần của con người, là biểu tượng của  tình yêu .  Nắng hạ vốn rất sáng  , rất ấm nóng . hồn là  phần vô hình trong con người,  đó là suy nghĩ, tình cảm .
Câu thơ “Hồn tôi là một vườn hoa lá” có thể  hiểu từ khi ông   tìm được mặt trời chân lý  cuộc sống  của tác giả  phơi  phới như mảnh vườn đang độ phát triển, đâm chồi nảy lộc
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...   chân lý của Đảng như chất xúc tác ( nước, phân bón,  khí hậu ôn hòa ) làm cho cây tươi tốt, có hoa rực rỡ  nở, tất nhiên chim chóc kéo đến đông đúc
 Những hình ảnh Mặt trời , nắng hạ, tim, vườn hoa lá,  đậm hương
, rộn tiếng chim   đều mang ý nghĩa ẩn dụ , đi liền với nhau, vẽ lên một bức tranh thiên nhiên rực rỡ, sống động, một bức tranh tình cảm tràn  đầy niềm vui sướng. Các  từ mạnh  ( chói, bừng, đậm, rộn ) càng tô đậm nguồn cảm xúc mãnh liệt, yêu đời , hạnh phúc vô bờ  trong tâm hồn nhà thơ từ khi ông  được đón chận chân lý cách mang và như  được sống một cuộc sống khác . Nhịp thơ sôi nổi , từ 2/2/3 đến 2/3/2  hay 3/1/3 thể hiện một tâm trạng dào dạt nguồn hạnh phúc .
Thế hệ thanh niên thời bấy giờ chịu sự chi phối của  tư tưởng  tư sản  của xã hội tư bản chủ nghĩa , một xã hội  có  sự  tiến bộ vượt bậc về phương thức sản xuất ,là một bước tiến có ý nghĩa lịch sử trong xã hội nhân loại.  Nhưng  cách mạng tư sản vẫn là sự thay thế chế độ bóc lột phong kiến bằng chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, chưa giải quyết được vấn đề cơ bản của xã hội là xóa bỏ chế độ người bóc lột người.Cách mạng vô sản là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị , giai cấp công nhân tiến hành lật đổ tư bản
Lenin cho rằng để chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, đảm bảo cho các dân tộc giành lại được độc lập, thì phải thực hiện sự liên minh, thống nhất của giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.Ở Việt Nam,Nguyễn Ái Quốc cho rằng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Với những người thanh niên tha thiết với vận mệnh dân tộc, hạnh phúc nhân dân , đây là mặt tròi chân  lý, soi cho họ con đường  đi qua đêm đen đang bị  thực dân Pháp chiếm giữ .Làm sao nhà thơ không dạt dào xúc động ?
Cảm xúc hạnh phúc này đã tạo cho ông có những chuyển biến trong nhận thức . Ông hiểu ngay mục đích đến cuối cùng là phải xây dựng một khối đời , bao gồm  “hồn tôi với bao hồn khổ” .  Phải làm sao trong tư tưởng ?Gần gũi họ, sau khi  trang trải , sẻ chia những nguồn sống về  tinh thần , vật chất, và sau khi đã “ bu ộc cột “ rất chặt  lòng nhà thơ , tình cảm nhà  thơ với những hồn khổ này .  Liên tiếp nhiều động từ cùng một trường nghĩa ( buộc, trang trải, gần gũi ) trong  một đoạn  thơ, bốn câu rời , nhưng có mạch lập luận móc xích rất chặt chẽ. Tư  duy của người cộng sản trẻ tuổi này cũng rất rõ ràng, sáng sủa.  Trong các  truyện ngắn “Rừng Xà nu” và “ Vợ chồng A Phủ”, chúng ta gặp hai thanh niên rất trẻ, những đảng viên cộng sản trẻ, hiểu biết ,nhiệt tình , đã nhận thức rõ mục đích hành động của mình, là “xây dựng một khối đời “.Đó  anh Quyết và A Châu. Nhận thức của họ hẳn mạch lạc, thông sáng như Tố Hữu tuổi 17 .Do đó, qua khổ cuối, hành động mới là điều cần thiết để tọa nên một “ khối đời” mạnh.

 Trước hết, là biết  cúi xuống ,chan hòa và hy sinh . Làm con là chấp nhận vạn nhà (có chủ nhân là những linh hồn khổ). Anh Quyết là một hình tượng người cán bộ Đảng mà nhà văn Nguyên Ngọc lấy từ chính mình . Ông kể,từ miền đồng bằng Trung bộ ( Quảng Nam ) ông đã thoát ly ( xa hẳn gia đình, người thân, quê hương) lên vùng Kontum, đóng khố, cà răng, căng tai, nói tiếng dân tộc,  sinh hoạt, lao động cùng họ( làm em của vạn kiếp phôi pha )  . Bản làng ( có đất đai ) có dân đông đảo,  vừa căm thù lại vừa khiếp hãi giặc, thì cán bộ Đảng,  với tư thế một lãnh đạo, phải ra sức xây dựng một chính quyền cách mạng trong dân. Anh Quyết hy sinh, nhưng  những việc làm của anh có  kết quả rất lớn. Người dân  được giác ngộ ( có một mặt trời) nhận thức đúng ( Đảng còn, núi nước này còn ) và hành động đúng ( hình thành một làng giải phóng . Cán bộ Đảng chính là người địa phương, cô Dít) Anh Quyết, A Châu, đã là anh đi trước, để Dít, rồi vợ chồng A Phủ … bước tiếp con đường  các anh đã đi . Nếu không có A Châu dẫn đường, vợ chồng A Phủ cứ mãi mãi cam chịu cuộc sống nô lệ , bởi thoát khỏi xiềng xích của cha con Pá Tra, họ vướng vào gông cùm của thực dân Pháp . Tố Hữu viết “ Tôi đã là con,là anh ,là em” nghĩa là ông đã “ vượt qua những thử thách này” trước khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng , dù chưa trọn vẹn như hai nhân vật Quyết và A Châu. Khâu hành động trong quá trình giác ngộ chân lý mới thực sự quan  trọng. Hệ thống câu đồng vị ngữ, nhấn mạnh từ đã là thể hiện niềm tự hào vô biên của tác giả , một chiến sĩ cộng sản tre tuổi những ngày cách mạng mới p

No comments:

Post a Comment