I.
CHỦ ĐỀ
CỦA NHỮNG TÁC PHẨM TỰ SỰ
Nội dung tư tưởng của các tác phẩm
thuộc loại tự sự ( truyện ngắn,tiểu
thuyết, kịch …) rất phong phú. Tuy nhiên , chúng ta có thể gom
về các nhóm sau
-
1.Đấu
tranh cho sự tự do , trong đó con người
được đối xử bình đẳng , bác ái .
Chủ đề này nằm trong các tác phẩm thuộc xu hướng cách
mạng ( Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc, Tinh Thần Thể Dục của
Nguyễn Công Hoan
-
2.Trách nhiệm của công dân với Tổ Quốc
(các câu chuyện lịch sử về Trần Hưng
Đạo, Trần Thủ Độ trong Đại Việt Sử ký của Ngô Sĩ Liên)
-
3. Đấu
tranh cho một thể chế chính trị tốt đẹp
: có chính quyền cách mạng- có lãnh thổ độc lập- người dân sống trong thanh
bình ( Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành , Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài,
Vợ Nhặt của Kim Lân, Chiếc Thuyền Ngoài
Xa của Nguyễn Minh Châu , kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng) Chủ đề này
nằm trong các tác phẩm được xây dựng bằng phương pháp hiện thực xã hội
chủ nghĩa) .
-
4.Phê phán và lên án xã hội đề cao những giá
trị nghiêng về vật chất danh vọng, tiền bạc, lạc thú không có điểm dừng , chà
đạp nhân cách, phẩm giá con người,đảo ngược những giá trị cao quý , đồng thời
cũng ca ngợi những khát vọng được sống trong ấm no hạnh phúc của người lao động (Thượng Kinh Ký Sự của Lê Hữu
Trác , Chức Phán Sự Đền Tản Viên của Nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chí Phèo của Nam Cao,Số Đỏ của
Vũ Trọng Phụng, Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh ,vở kịch Hồn Trương Ba,
Da Hàng Thịt của Lưu Quang Vũ..) Chủ
đề này
nằm trong các tác phẩm được xây dựng bằng phương pháp hiện thực phê phán
-
5. Ca
ngợi những con người sống có lý tưởng cao đẹp, có khát vọng chân chính, vượt
lên trên những ham muốn tầm thường, nâng cao giá trị sống của con người(Ông già
và biển cả , Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam, Những
Người Khốn Khổ của Victor Hugo, kịch
Romeo và Juliet của Shakespear) Chủ đề
này nằm trong các tác phẩm được
xây dựng bằng ngòi bút lãng mạn.
Để nắm được
chủ đề tư tưởng của văn bản tự sự, việc tìm
tình huống và bám tình huống là
yếu tố cơ bản để thâm nhập tác phẩm tốt nhất
II
TÌNH HUỐNG
1. Tình huống là gì ?Để có thể khai thác mỗi
tác phẩm theo đúng chủ đề , chúng ta có nhiều lối thâm nhập. Một hướng đi tích cực, chủ động và hợp lý hơn cả, đó là
bám tình huống truyện.
Mọi tác phẩm tự sự đặc sắc đều gắn liền với những tình huống truyện độc đáo.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng:
“Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm viết, tôi nghĩ rằng đôi
khi người ta nghĩ ra được một cái tình
thế xảy ra chuyện, thế là coi như xong một nửa…Những nhà văn có tài
đều là những người có tài tạo ra những tình thế xảy ra chuyện vừa rất cá
biệt vừa mang tính phổ biến hoặc tượng trưng” và “…những người cầm bút có
cái biệt tài có thể chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống
đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý
nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc sống…nhưng bắt buộc con người ở vào
một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm
can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất,
thậm chí có khi là khoảnh khắc chứa
đựng cả một đời người, một đời nhân loại” .Nhà văn Nguyên Ngọc khi bàn về truyện
ngắn đã đặc biệt chú ý đến vấn đề tình huống: “Truyện ngắn dẫu sao cũng
phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là thủ thuật điểm huyệt … Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện bằng cách
nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che
giấu trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày”
Như vậy , “ một cái tình
thế xảy ra chuyện, (Nguyễn Minh
Châu) điểm huyệt thực hiện bằng cách nắm bắt trúng những tình huống
cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại
bị che giấu trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày(Nguyên Ngọc)” thường nằm vị trí nào trong một tác phẩm tự sự ?
2. Vị trí của tình
huống : Kịch, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài,
ngay cả những văn bản thuộc thể
loại truyện không có cốt truyện, đều có
phần chứa một biến cố đầu tiên, quan trọng
xảy ra cho cuộc đời nhân vật ngay sau khi
nhân vật chính đó xuất hiện. Biến cố nằm luôn nằm trong phần tạo một nút thắt
lớn cho câu chuyện . Biến cố
này được gọi là Tình huống truyện. Sự cố đầu
tiên xảy ra cho nhân vật là một sự xung
đột,mâu thuẫn,va chạm do hành động của hai bên gây ra
Tuy nhiên cũng có
một vài trường hợp ngoại lệ Có nhiều dạng tình huống: Tình huống hành động,
Tình huống tâm trạng Tình huống nhận thức.
3.Cách
tìm tình huống : Nhiều tác phẩm tự sự có những
kết cấu riêng, tùy theo ý đồ của tác giả , nhưng bao giờ người đọc cũng sẽ phát hiện ra năm phần chính của cốt truyện: khai đoan, thắt nút,
phát triển, cao trào, mở nút. Dựa theo nhân vật chính trong phần Khai đoan
, tác giả sẽ cho chúng ta biết nhân
vật chính tên tuổi là gì ? Sống vùng nào, trong giai đoạn nào, làm nghề gì,
tính tình như thế nào, hay có thể gom lại trong bốn phần : xuất thân từ đâu?
Đời sống trí tuệ, tình cảm ra sao ? đại diện cho thành phần giai cấp nào trong
xã hội ?
Sau những phần đó, ta sẽ thấy nhân vật bị đẩy
vào một cảnh ngộ đặc biệt nào đó, mà cảnh ngộ này sẽ chi phối toàn bộ những diễn biến xoay quanh số phận ( giàu
nghèo) tính cách ( tốt xấu) của nhân vật chính . Cảnh ngộ này chứa một sự
biến –đó là cuộc đụng độ giữa nhân vật với một hay nhiều người,
tạo nên một cái gút ( nút thắt) . Chúng ta gọi đây là tình huống truyện. . Từ sự biến này, câu
chuyện phát triển qua hàng loạt tình tiết khác, dẫn đến cao trào, bắt buộc đi đến kết thúc câu chuyện (mở nút) Hầu hết
các tác phẩm tự sự đặc sắc luôn mang theo tam giác này.
III.
TÌNH HUỐNG TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM :
* Tình
huống hành động: là
dạng tình huống đặt ra buộc người viết để cho nhân vật phải giải quyết bằng những hành động
1.
VI HÀNH ( Nguyễn Ái Quốc )Đọc Vi Hành, một truyện ngắn “ cực ngắn” được
viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Ái
Quốc, ta thấy tình huống tác giả đặt ra khá ly kỳ. Người Pháp đã nhập nhằng
giữa hai thanh niên Việt Nam có tuổi tác, vóc dáng, sắc tộc hao hao nhau, đang có mặt ở Pháp..
Câu chuyện
phát triển với ngòi bút châm biếm theo
hai ý tưởng lớn: (1) tác giả đồng tình với cách
đánh giá của người Pháp bản xứ ( Khải Định là một ông vua bù nhìn,dốt
nát, ăn chơi ), nhưng(2) tác gỉa cũng lên thái chủ trương mị dân của chính phủ
Pháp ( lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái là trò giả hình tráo trợn ở Pháp ) Như
vậy, để mở chiếc nút thắt đầy trớ trêu
của câu chuyện, tác giả buộc phải lên tiếng qua một truyện ngắn đậm màu sắc châm biếm,lối chơi
chữ, tương phản,phóng đại mà người Pháp thường dùng, khẳng định hai con người
này hoàn toàn đối lập với nhau :tác giả
đến Pháp để đòi tự do cho dân Việt Nam tại bản xứ, trong đó con người
được đối xử bác ái, bình đẳng . Trái lại, Vua Khải Định đến Pháp để thỏa hiệp
với thực dân Pháp
2. TINH
THẦN THỂ DỤC (Nguyễn Công Hoan )Tình
huống trong Tinh Thần Thể Dục của
Nguyễn Công Hoan lại độc đáo trong một khía cạnh khác. Một trát ( công văn )
đưa về, bắt buộc một trăm người nông dân
đàn
ông làng quê nghèo khó này “ phải” đi xem đá bóng .
Bằng lối chơi chữ, tương phản,phóng đại của văn trào phúng tương tự Vi
hành , tác giả chỉ trích hành vi đi ngược lại lá cờ tự do, bình đẳng, bác
ái của thực dân Pháp . Và rồi cuộc chiến đấu tranh cho tự do, bình đẳng
, bác ái nổ ra. Có
tự do hay không ? . Tự do là phải một
lòng một dạ làm theo ý quan . Trái lại:
rũ tù ! Có bác ái không ?Lý trưởng dửng dưng trước cảnh túng
quẫn của dân lành, nhẫn tâm với kẻ : ốm gần chết cũng phải đi .Đây không biết, đây không
nghe .Và ông cũng “không thấy ”luôn .Ba không. Có bình đẳng không? lý trưởng đối xử với người dân
quê An Nam thế nào nhé :ngu như lợn.
3 NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
(Nguyễn Thi ) : Nhà văn liệt sĩ Nguyễn Thi đã tâm sự cùng tác giả Rừng Xà Nu
Nguyễn Trung Thành : Cuộc chiến đấu trước mặt bọn
mình(1962-68) chắc chắn sẽ hết sức khốc liệt. Ở trong ấy lúc này chúng ta chưa có dân, chưa có đất, toàn bộ chính
quyền còn trong tay kẻ thù. Gần như phải bắt đầu từ tay không mà đi tới
giành lại tất cả. Tình hình như vậy mà mình về để làm văn chương thì vô nghĩa,
vô duyên quá. Về trong ấy, có lẽ mình sẽ làm tất cả việc gì cần làm cùng với
đồng chí đồng bào, làm gì cũng được, bất cứ việc gì có ích dù nhỏ nhất. Mình sẽ
chỉ trở lại cầm bút khi nào việc cầm bút thật sự cần thiết và có ích như cầm
súng hoặc là hơn thế”.
Vì vậy, để xây
dựng một truyện ngắn hướng về mục đích “ đấu tranh bảo vệ dân, gìn giữ đất, xây
dựng chính quyền cách mạng” , nhà văn chọn tình huống : Xã Định Thủy ngày ấy cũng như
nhiều thôn xóm miền Nam đang đương đầu
với một cuộc chiến dai dẳng,một bên là
nhân dân miền Nam quyết
giữ đất, giữ dân, xây dựng chính quyền cách mạng, một bên là giặc chủ trương giành dân lấn đất, lập các vùng chiến lược, để đặt chính quyền của họ. Giặc
có quân lính đông đảo, vũ khí hiện đại,
nắm thế chủ động, còn người dân tay không, thưa thớt, hoàn toàn bị động ,làm
sao đây ?
4 . RỪNG
XÀ NU ( Nguyễn Trung Thành ) : Cùng hướng về mục đích này, nhà văn cho biết
mình ông đã chọn tình huống bằng cách nào và như thế nào !
Nhà văn kể “ Hồi tháng 5 năm 1962, hành quân từ miền Bắc
vào, tôi cùng đi với anh Nguyễn Thi, Cùng đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào, đến đêm
chia tay mỗi người về chiến trường của mình -là khu rừng bát ngát phía tây Thừa
Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xà nu tít tắp tận chân trời. Tôi yêu say mê
cây rừng xà nu từ ngày đó. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và
trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi
mênh mông, tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây,
hàng vạn, hàng triệu cây vô tận. Không khí ở đây thơm lừng. Nệm lá dưới mặt đất
ngả lưng êm ru.-.. Nguyễn Thi và tôi đã sống với nhau một ngày một đêm chia tay
cuối cùng( nhà văn Nguyễn Thi hy sinh
tại Sài gòn năm 1968) trong khu rừng tuyệt vời ấy. Cùng nhau ôn lại cả cuộc đời
mình, và nói với nhau về cuộc chiến đấu đang chờ mình trong kia...
Đầu năm 1965, trên đường từ chiến trường
ngoại ô thị xã Quy Nhơn (thuộc tỉnh Bình Định) trở về cơ quan bộ tư lệnh quân
khu 5 đóng ở rặng núi Răng Cưa, giáp ranh hai huyện Trà Mi (Quảng Nam) và Trà
Bồng (Quảng Ngãi), tôi chứng kiến cuộc đổ quân ồ ạt hung dữ chưa từng thấy của
mấy vạn thuỷ quân lục chiến Mĩ vào bãi biển (bãi biển Chu Lai ngày nay ). Tôi
còn nhớ rất rõ ngày hôm ấy: ngày 8 tháng 3 năm 1965. Số phận đã cho tôi cái may
mắn chứng kiến một sự kiện lịch sử: cuộc đổ quân đầu tiên của Mĩ, ngaỳ bắt đầu
cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta.
Đó là
những ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hùng:
dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế quốc Mĩ. Tôi được
giao viết một truyện ngắn về đồng bằng, nhưng chữ viết cứ nằm bẹp trên trang
giấy .Tôi bèn chuyển đề tài: viết về
miền núi. Bắt đầu đến dưới ngòi bút, gần như không hề tính trước, là một khu rừng xà nu, những cây xà nu”
Truyện bắt đầu bằng một khu rừng xà nu này . Đó là
thời điểm ba năm sau, khi Tnú tham gia đội quân chính quy của cách mạng và về
thăm làng. Dít trở thành bí thư chi bộ ( thay mặt Đảng lãnh đạo nhân dân về mặt chính trị ) kiêm chính trị viên xã đội ( thay mặt Đảng lãnh
đạo nhân dân về mặt quân sự ). Người dân đã có chính quyền cách mạng dẫn
đường . Rừng xà nu, chính là lãnh thổ, đất đai mà biết bao người đã đổ máu để
giữ gìn . Nhân dân sống trong không khí vừa chiến đấu chống giặc,
vừa ra sức xây dựng đời sống kinh tế văn hóa giáo dục , dù đạn đại bác
của giặc vẫn dội ngày hai lần ,do
chúng không còn dám đổ quân đến .
“ Có được câu đầu rồi: Làng ở trong
tầm đại bác của đồn giặc... bỗng tất cả như bật dậy, mở ra. Tôi đã
thấy rõ, cái truyện ngắn này sẽ bắt đầu bằng một khu rừng xà nu - (mà tôi sẽ ra
sức tả một cách hết sức tạo hình, như chạm nổi lên như vậy, có không gian như
tượng tròn và có cả mùi vị có thể ngửi thấy được) - và truyện sẽ kết thúc cũng
bằng một cảnh rừng xà nu, như một vĩ thanh cứ xa mờ dần và bất tận, nghĩa là
"bố cục" cơ bản đã thấy được rồi...Sau đấy mọi sự bỗng trở nên rõ
ràng, dễ dàng đến kì lạ.”
Phần khai
đoan, tác giả chọn các nhân vật chính bằng cách nào ? Cũng là những anh hùng có
thật. Theo lời tác giả,thì “Tôi được
biết ông cụ Mết (nhân vật của Rừng Xà Nu) từ những năm chiến tranh chống Pháp. Làng Xóp Dùi của ông
Mết ở bắc Kon Tum , một trong hai làng
kháng chiến nổi tiếng: làng Xi Tơ ở Gia
Lai, và làng Xóp Dùi này . Ông Mết có
rất nhiều thành tích. Sau 7 năm ở miền
Bắc, năm 1962 tôi trở về Tây Nguyên . Khoảng 1963, một chuyến đi công tác gặp
giặc càn, bị lạc đường và đói, tôi tìm
vào làng đồng bào Xê Đăng kiếm ăn . Đó là làng anh Đề. Anh Đề, một thanh niên
khoảng gần 30 tuổi, là người đứng đầu làng này. Suốt mấy đêm liền, bên bếp lửa
nhà sàn đốt suốt đêm để chống rét bằng củi xà nu, anh Đề kể cho tôi nghe chuyện
hồi 1959, chính anh đã cùng 10 trai tráng làng này dùng dao rựa, giáo mác giết
sạch một tiểu đội lính Diệm, bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang . Nhà văn kể tiếp
: Và thật lạ đối với chính tôi, tôi biết rất rõ rằng, chắc chắn rằng
"làng" - cái "làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc" ấy -
chính là cái làng anh Đề ! Tôi biết và thấy rõ.”
“Và tôi bỗng
biết luôn, cũng rõ ràng như vậy, tôi sẽ viết chuyện về cuộc khởi nghĩa của anh
Đề, cuộc đời, số phận anh Đề. Tôi có ngay cảm giác phải tìm một tên khác cho
anh Đề. Tên Đề nó Kinh quá, người Kinh quá. Tnú, tôi gọi anh bằng tên ấy. Nó
"không khí" hơn nhiều. Khi đã biết tôi sẽ viết chuyện anh Đề - Tnú -
tôi thấy yên tâm và bình tĩnh. Tình
huống truyện là :làng Xô-man ngày ấy cũng như nhiều thôn bản Tây Nguyên
đang đương đầu với một cuộc chiến dai dẳng,một bên là nhân dân
Tây Nguyên quyết giữ đất, giữ dân, xây dựng chính quyền cách
mạng, một bên là giặc chủ trương giành
dân lấn đất, lập các vùng chiến lược, để đặt chính quyền của họ. Giặc
có quân lính đông đảo, vũ khí hiện đại,
nắm thế chủ động, còn người dân tay không, thưa thớt, hoàn toàn bị động ,làm
sao đây ?
Câu chuyện cứ phát triển dần . Những tháng
ngày bảo vệ cán bộ Đảng, rồi Tnú đã
trưởng thành, nhận lấy trách nhiệm nặng nề nhưng vẻ vang. “ Một nỗi đau riêng
bức bách dữ dội, bật ra từ nỗi đau chung của làng xóm, dân tộc: đứa con bị đánh
chết tàn bạo, Mai gục xuống, ngay trước mắt Tnú.” Đây là cao trào của tác phẩm. Và đây cũng chính là
hoàn cảnh anh hùng “ Và cái gì để dẫn đến cuộc bùng dậy ghê gớm như vậy của Tnú
(diệt sạch cả một tiểu đội giặc gần như bằng tay không, những năm tháng chưa hề
có tiếng súng cách mạng ấy )”Hành động thật anh hùng, đẹp đẽ như sử thi vậy . “Dít , em gái Mai ,sẽ là
mối tình sau của Tnú, một mối tình sẽ lờ mờ mà chắc chắn hiện lên ở cuối
truyện..”
“Và ông cụ Mết của tôi cũng tất yếu phải
đến. Ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên
của thời Đất nước đứng lên trường tồn đến hôm nay. Ông như
lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày
càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn của các thế hệ sau. Có lẽ cũng từ
đó mà thằng bé Heng. Nó sẽ còn đi tới
đâu, chưa ai lường được...”
“Tất cả trở nên dễ dàng đến ngạc nhiên đối với
tôi. Tôi hình dung ra, thấy hiển hiện ra tất cả. Các chi tiết tự nó đến: các bà
cụ già lụm cụm bò từ trên thang nhà sàn xuống, các cô gái lấy nước ở vòi nước
đầu làng thân yêu và thẹn thùng vác ống bươm đứng tránh ra một bên cho Tnú rửa
mặt, tắm mình trong vòi nước làng quê... cả đến tiếng nước lanh tanh trong đêm
khuya, cả đến lùm khói quyện lên từ chiếc ống điếu vồ của cụ Mết, cả cái lối
Dít xem xét kiểm tra nghiêm khắc và thương yêu từ giấy phép của Tnú, cả mười
ngọn lửa xà nu cháy giần giật trên mười đầu ngón tay đau đớn của Tnú... Tất cả,
tôi không phải "bịa" thêm gì cả, tôi thấy rõ hết. Mặc dầu tất cả đây
hoàn toàn là một câu chuyện bịa. Mà như thật. Với tôi, nó hoàn toàn có thật. Cách sắp xếp các lớp thời gian trong truyện,
xen kẽ, đan quyện, những mạch nối... cũng đến dễ dàng và tự nhiên, như tất nó
phải vậy.”
“Rừng xà nu là truyện của một đời, và được kể trong một đêm. Đó là cái đêm
dài như cả một đời. Nhưng nó cũng ngắn, cũng chỉ là một đêm trong sự sống vất
vả, đau khổ và hạnh phúc trường tồn ở đây, bởi "nhìn ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác
ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.Đây là phần kết thúc tác
phẩm .”
Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã nhớ lại bối cảnh,quá trình ông viết Rừng xà nu .Những
chi tiết ông kể là cái khung dàn ý của câu chuyện vừa phản ánh hiện thực, vừa
pha màu sắc hư cấu. Tình huống là cốt
lõi của câu chuyện. Nó sẽ góp phần xâu chuỗi các bước tiến hành kể chuyện, vừa
lý giải và khắc họa số , tính cách nhân
vật chính,
5. VỢ CHỒNG A PHỦ(Tô Hoài ) .
Tô Hoài đã mượn những nhân vật, những sự kiện có thật từ cuộc sống của người dân tộc Mông những năm 50 của thế kỷ trước để xây dựng câu
chuyện. Năm 1952,là phóng viên của báo Cứu Quốc (báo Đại Đoàn Kết
bây giờ), Tô Hoài được cử lên Tây Bắc như Sơn La, Lai Châu để viết về cuộc sống nhân dân ở đây. Chuyến công tác ở Phù Yên (Sơn La). ông gặp một cặp
vợ chồng người Mông vào đúng dịp tết truyền thống của họ. Đó là Lầu A Phử và Mùa Thị A (là A Phủ và Mỵ trong truyện ngắn cùng tên ) . Họ kể
việc phải bỏ trốn khỏi nhà tên thống lý rất
tàn ác làm tay sai cho Pháp. Bối cảnh chính của Vợ chồng A Phủ được nhà văn Tô Hoài đặt chính ở
xã Hồng Ngài, thuộc huyện Bắc Yên (Sơn La ngày nay) Lúc bà bị bắt mới 15, 16 mùa lá
rụng( tuổi ) Bà
bị thống lý Mùa Chờ La bắt về phục dịch, rồi chồng bà sau này, ông Lầu A Phử
cũng bị bắt về nuôi trâu, nuôi ngựa, rồi trồng thuốc phiện. Những chi tiết thực này có thể xem là tình
huống trong truyện : . Mỵ phải làm vợ A Sử
vì món nợ bố mẹ để lại,vì ruộng nương
quá ít, muốn đi chơi xuân cũng bị trói.
A Phủ mồ côi,không một tấc đất trong tay, cũng do giành gái ngày xuân mà mang
họa, phải làm đầy tớ cho A Sử . Nỗi khổ
đau, ê chề của họ không một ai thấu hiểu . Quá khứ đau thương của họ do những nguyên nhân rất hiển hiện của
mọi con người khi đất nước bị ngoại xâm : không có đất cày cuốc, không được một chính quyền vì dân dẫn đường .Thống lý Pá Tra là nguyên mẫu của ông Mùa
Chờ La. Mùa Chờ La chuyên đàn áp, cướp bóc của cải người dân nên bà con rất căm
thù. Cái hang mà thời xưa vợ chồng A Phủ
bỏ trốn giờ vẫn còn, người ta gọi là
hang A Phủ . bố ông Mùa Chống Lầu
Sau khi trốn khỏi nhà thống lý Mùa Chờ La, hai vợ chồng A Phủ đã
về sinh sống và làm cách mạng ở xã Hồng Ngài. Ông Mùa Chống Lầu, con trai Mùa
Chờ La và Lầu A Phử đều có những vị trí trong chính quyền cả. Ông
Mùa Chống Lầu lúc bây giờ đang là ủy viên Ủy ban Mặt trận tổ quốc khu. Bố tàn
ác,nhưng , đến đời con, thống lý Mùa Chống Lầu lại đi theo cách mạng, theo Việt
Minh và giúp đỡ cho bộ đội chúng ta rất nhiều. Ông Mùa Chống Lầu đã xây dựng cơ
sở, vận động tất cả người Mông khu 99 theo cách mạng, theo bộ đội Cụ Hồ. Tô
Hoài đã gặp và làm bạn với thống lý Hồng Ngài (Bắc Yên) khi đó là Mùa Chống Lầu
Cán bộ A Châu" Đinh
Văn Tôn sinh năm 1930. Khi vừa tròn 20 tuổi, ông nhận nhiệm vụ gây dựng cơ sở,
tuyên truyền cách mạng cho đồng bào Mông, Mường, Thái ở Khu 99 (huyện Bắc Yên)
để tạo điều kiện cho Việt Minh mở rộng địa bàn hoạt động bên tả ngạn sông Đà,
kết nối Chiến khu Việt Bắc với chiến trường Sơn La và Điện Biên Phủ. Ông Tôn là
người dân tộc Mường, sinh ra và lớn lên ở bản Mùng, xã Tân Phong, huyện Phù
Yên. Ông đi theo cách mạng từ rất sớm và và là một cán bộ cốt cán của lực lượng
Việt Minh hoạt động tại địa bàn tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và huyện Phù Yên.
.
Tháng
1.2012, phóng viên Phùng Bình của Báo
Mới đã có dịp ghé bản Lung Tang, đỉnh cao nhất của xã Hồng Ngài , huyện Bắc Yên (Sơn La ngày nay) thăm “cô
Mỵ “ Ông đã mất, . bà không biết chữ, không nói, nghe được tiếng
phổ thông cho nên bà cũng không biết
mình bao nhiêu tuổi. Có lẽ hơn 80 ,vậy
thôi... Trông bà vẫn còn khỏe lắm. .
Ở nhà hàng ngày bà
giúp cháu con những việc cơm nước, lùa trâu vào chuồng. Kể về cuộc sống hiện
tại bà bảo "ưng cái bụng" lắm. Giờ đi đâu cũng có xe máy, ngô lúa thì
năm nào cũng đủ ăn. Bọn trẻ bây giờ được học hành, được biết cái chữ, đứa nào
cũng có cơm no, quần áo để mặc. Cái bà "ưng cái bụng" nhất là con gái
lớn lên không bị bắt đi làm vợ nữa. Thích ai thì được yêu, được lấy. Ngày ấy, may
là cả bà và chồng dám bỏ trốn, rồi may mắn được gặp cách mạng.Khi kể về người
chồng A Phủ - Lầu A Phử, bà tự hào lắm. Bà bảo hai người sống rất hạnh phúc. Khi
ông ốm, bà đã cố gắng đi lấy rất nhiều thuốc cho ông nhưng không qua được.Ông
cứ dặn bà đừng lấy chồng nữa, ở thế thôi. Bà đã nghe lời ông .
6. VỢ
NHẶT (Kim Lân ) là một
truyện ngắn được sáng tác năm
1962, một khoảng lùi có độ xa từ nạn đói
kinh hoàng 1945. Với Kim Lân “Chuyện Tràng “ nhặt vợ” là một sự lạ,nhưng sự
kiện đó chỉ gây ra chút tò mò ban đầu
thôi.. Tình huống câu chuyện được nhiều người xem là độ đáo ở điểm một người thiếu nữ , do nạn đói
trôi dạt đến nơi Tràng vẫn hằng ngày đẩy xe cút kít mưu sinh. Chị giúp
anh một lần, đòi anh trả công bằng bốn bát bánh đúc,rồi sau đó theo anh về làm
dâu mẹ anh . Từ biến cố lớn lao này xảy ra thật bất ngờ
trong đời Tràng, đặc biệt cho chị “vợ nhặt”, câu chuyện diễn tiến theo ba cảnh
. Cảnh một,( là quá khứ ) Trang giữ vai trò chủ động. Với Kim Lân, “ do hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống,
mọi người không còn đủ sức để nhận ra
điều đó là ngược đời . Nó còn được dùng như một
cái thước đo vô hình, kiểm lại cuộc sống hiện tại của họ.Câu chuyện của
Tràng nhanh chóng không còn được bàn tán nữa ,khi họ cùng nín lặng hiểu ra số phận khắc nghiệt đang treo lơ lửng trên
đầu họ Cảnh hai(hiện tại ) nhân vật
quan trọng là người mẹ.Nhà văn
tâm sự “Chuyện Vợ Nhặt do tôi sáng tạo ra.Không thể có một bà mẹ,một cô con dâu
như thế trong đời sống thực .Tôi muốn
phân tích tâm trạng,thân phận của con người trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy,
nơi cuộc sống không có lối thoát . Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự yêu thương
nhau,không phải là sự giành giật” Tác giả
xúc động nhất đoạn bà cụ Tứ đón
nhận cô con dâu.Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Tình của
người mẹ thật lớn. Bà không chỉ thương
con trai mà đầy lòng thương xót đối với người đàn bà cùng quẫn kia, dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó là
bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu chuyện.
Qua cảnh cuối,(tương lai ) chị con dâu trở thành người mở ra một hướng đi trong tương
lai cho cuộc sống của họ . Nơi ngưỡng cửa của cái đói,họ sẽ chứng tỏ số phận và
tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó, họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới ,dù là
rất mong manh Một niềm tin mong manh trước khi người người
nồng nhiệt đón mừng cuộc cách mạng trong tháng Tám năm ấy(1945) Sau đêm tối, bình minh sẽ hiện ra. Trong bóng đen của
cái đói hoành hành, người ta không mơ
tưởng những điều cao siêu, mà ấp ủ khát vọng được “nên người, có bổn
phận phải lo lắng cho vợ con sau này” một “ địa vị” giản đơn nhưng không dễ dàng có được, nuôi giữ một dự định “mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại có ngay đàn gà”
chút “ tài sản nhỏ nhoi” bắt đầu từ hạnh
phúc ấm ấp “ chị vợ là người hiền hậu đúng mực,bà mẹ cũng nhẹ nhõm, tươi
tỉnh, còn Tràng thì vui sướng, phấn
chấn” .
7. CHIẾC THUYỀN
NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)
Được tác
giả lấy bối cảnh từ một gia
đình làng chài miền trung . Người dân vừa
bước ra khởi một cuộc chiến chống Mỹ khốc liệt
hơn hai mươi năm , vết tích chiến
tranh còn để lại rất rõ. Nhân vật Phùng
từng đã cầm súng mười năm trên rừng A So
thuộc miền quê này để người dân có một
cuộc sống mới : có chính quyền cách mạng,
ngư dân được cấp đất . Theo Phùng,
tất cả sẽ ổn . Thế nhưng , tại sao người chồng ở nơi này lại đánh đập vợ .Không riêng gì người bố thằng Phác, mà qua lời cô y tá, một cư dân tại
đây, hầu hết đàn ông, những chúa thuyền vùng phá này đều rất tàn bạo với vợ con . Vì vậy mà cô y tá
chưa chịu lập gia đình . Thắt
nút câu chuyện nằm ở đây. Và cũng là tình huống của câu chuyện.
Từ đó, những vấn đề lớn buộc
phải giải quyết : (1) ngư dân lấy sông nước làm nhà nên việc cấp
đất trở nên vô nghĩa . Công việc “ vô nghề đi tát, mạt nghề đi câu”
, khiến hạnh phúc hiếm hoi của hai vợ
chồng với đàn con đông đảo là “ chỉ vui khi thấy con được ăn no” . Chính quyền phải giúp họ một chiếc cần câu khác .(2) Vừa ra khỏi cuộc chiến, người chồng còn
mang một quan niệm xưa cũ .Không mang
lại bát cơm no cho con cái ( lợi lộc vật chất ) thì danh dự một người chồng, người cha, người chủ con thuyền là con số
không, dù anh ta có được vợ con cảm
thông đến đâu, đó là vợ đưa lưng chịu trận, còn con gái lớn tìm cách uy hiếp đứa em trai luôn thù hằn cha
đã đánh đập mẹ mình ,để “ bảo vệ cha” . Vì vậy, cứ “ ba ngày một trận nhẹ, năm
ngày một trận nặng”, chị phải cắn
răng nín lặng chịu đựng . Phải làm sao cho người chồng nhận ra
vấn đề ?
(3) Đừng nhìn vào cảnh thuyền và
biển đẹp như một bức tranh cổ, khiến
người xem luôn mơ tưởng một cuộc sống có tương lai rộng mở, hạnh phúc, no ấm.Thực
tế cuộc đời vốn phũ phàng. Phùng không hề nhìn thấy thuyền, biển thật đẹp lúc
bình minh, mà anh chỉ thấy dáng người mẹ, một phụ nữ làng chài, vất vả, nghèo
khổ, nhưng mạnh mẽ, bước những bước chậm
rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông” .
…Họ vẫn chưa có hạnh phúc trọn
vẹn, con cái thiểu thốn, tương lai bế tác . Trách nhiệm của “các chú cách mạng”
là gì?ở đâu ?
8 . VŨ NHƯ TÔ (
Nguyễn Huy Tưởng ): Vở kịch này được viết
năm 1943khi Nguyễn Huy Tưởng gia nhập Hội Văn
hóa cứu quốc. Hoạt động của Hội là gạt bỏ những nét tiêu cực phong kiến lạc hậu
trong văn hóa Việt Nam, vốn xem nhẹ vị trí
quan trọng của người nông dân, lại đề
cao sức mạnh quyền lực của vua chúa thống trị . Qua lịch sử , ông bắt gặp Vũ Như Tô,một
nhân vật có thật, .”
Đại Việt sử ký toàn thư không dùng những
lời lẽ tốt đẹp mà chép sử bằng sự thật:
"Người thợ Vũ Như Tô làm điện
lớn hơn trăm nóc, dùng hết tiền của và sức dân trong nước”. . Mới
một năm, công trình dành cho vua Lê Tương Dực hoàn thành 1/5, nhưng dân chúng vô cùng khốn
khổ : đói kém, mất mùa, nhân dân oán than, thù trong (Trịnh Duy Sản)giặc ngoài
(Trần Cao). Vũ Như Tô là một nghệ sĩ,
tạo nên những tác phẩm nghệ thuật không phục vụ nhân dân , gây nên nhiều đau khổ, cuối cùng bản thân ông “ bị chém
ở ngoài cửa thành, khi Như Tô đương coi
làm mấy nóc nhà đại điện chưa xong. Mọi người đều chỉ trích chê cười, có người
nhổ nước bọt vào thây của hắn. "
Tình huống tác giả đặt ra là : Ông xiêu lòng bởi lời thuyết phục của Đan Thiềm, một cung nữ bị thất sủng
:Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ mất đi, nhưng sự
nghiệp của ông còn lại muôn đời .Dân ta nghìn thu được hãnh diện .. Hậu thế sẽ xét công cho
ông, và nhớ ơn ông mãi mãi. Đất Thăng Long này thành
nơi kinh kỳ lộng lẫy nhất trần gian.
Từ tình
huống này, vở bi kịch phát triển theo
hướng tiêu cực như lịch sử đã ghi chép :nhân dân khốn khổ, đất nước loạn lạc,
vua bị giết. Vũ Như Tô cũng không bảo
toàn được thân mình . Vở kịch đặt ra một
vấn đề thứ nhất. Người nghệ sĩ phải sáng
suốt và nhân ái , phải có tấm lòng đồng cảm với nhân dân, nhận ra đâu là điều
quan trọng nhất : nhân dân hay sự xa hoa lãng phí , nghệ thuật phục vụ cho
ai trong hoàn cảnh xã hội loạn lạc ? Thứ
ba,bản thân người cầm quyền cũng cần tỉnh táo và nhân hậu khi
chọn lựa : vì mình hay vì dân ?
9. TRUYỆN
AN DƯƠNG VƯƠNG,MỊ CHÂU, TRỌNG THỦY dựa theo một tình huống lịch sử của
nước nhà . Đấy là thời điểm nhà vua chủ
quan khi ung dung sống trong thành Cổ Loa kiên cố, có nỏ thần linh nghiệm .
Tác giả dân gian chỉ ra những bài học dựng nước và giữ nước
sâu sắc :
-
Cổ Loa thành và Nỏ Liên Châu có nguồn gốc từ
đâu ? Nhân dân có vai trò như thế nào
trong công cuộc giữ nước của vua
An Dương Vương ? ( chính họ tạo ra Cổ
Loa thành và Nỏ Liên Châu.)
-
Vì sao nhà vua không hề có
ý thức cảnh giác khi biết Trọng Thủy là con trai Triệu Đà, kẻ thù của mình ?( Thái
độ quá tự tin , tự mãn , vua bỗng xem nhẹ vai trò lãnh đạo đất nước của mình,
không coi trọng số phận của sinh linh trăm họ bằng hạnh phúc của con gái, không
chú ý đến giang sơn mà chăm chăm vào Cổ
Loa thành và Nỏ Liên Châu.)
-
Bản chất của Trọng Thủy như
thế nào ?( gián điệp đột nhập chốn trung tâm thành, đưa tay tráo nỏ)
-
10
.THUỐC ( Lỗ Tấn)Mới
đọc,câu chuyện có những tình tiết khiến người đọc khó nắm bắt trọng tâm.Nhân vật chính là ai? Nhân dân ở
thành Thiệu Hưng hay Hạ Du, một nhân vật chỉ
xuất hiện gián tiếp.Ở đây có thể chọn ra hai tình huống . Nếu lấy nhân
dân là nhân vật chính, thì tình huống
là gì ?Họ đối xử tàn tệ với Hạ Du,
người chiến sĩ của tổ chức chống triều đình nhà Mãn Thanh, kẻ sẽ đem đến cho họ cuộc sống mới.Nếu chọn Hạ Dụ
làm nhân vật chính thì ngược lại cũng thế: anh
bị hành hình, máu anh bị biến thành một món hàng hóa. Ước nguyện của Lỗ Tấn
là qua câu chuyện, ông muốn lên tiếng đánh động người Trung Quốc một vấn đề ,
mà chính Thu Cẩn đã quyết tâm “không đổ máu cách mạng sao có thể thành công”, nghĩa là nhân dân hãy tỉnh
táo và có thiện cảm với phong trào cách mạng. Đó là vị thuốc là máu các chiến
sĩ đã đổ để chữa trị căn bệnh xa rời cách mạng của nhân dân.Đừng dùng máu người
yêu nước để chữa chứng ho lao, vì hành động đã báo động nguy cơ người dân thật sự mê muội và không có
lòng tin vào cách mạng.
* ,
Tình huống nhận thức : tình huống trong tác phẩm dẫn đến những xung đột và biến cố buộc
người đọc phải suy nghĩ, nhận biết, đánh giá
để tháo gỡ .
1. TRUYỆN KIỀU (Nguyễn
Du):
Đọc
Truyện Kiều, chúng ta thấy Nguyễn Du đưa ra thuyết tài mệnh tương đố “ chữ tài
chữ mệnh ghét nhau” dẫn đến nhiều khổ đau cho Kiều, những cuộc bể dâu. Nhưng
nguyên nhân chính vẫn là vì thói đời tôn thờ tiền bạc . Kiều
phải bán mình , để có tiền chuộc cha . Đấy là một nút thắt, tạo nên một tình huống vô cùng lớn lao của pho tiểu
thuyết thơ này .
Từ đây, nhân
vật Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng để dựng lên nhiều vấn đề lớn . Cuộc đời
Kiều là sự mâu thuẫn về quyền sống của
con người ( đặc biệt người phụ nữ )với sự áp bức của xã hội phong kiến suy tàn. Nỗi đau của Kiều trong quãng đời lưu lạc
là bi kịch của những kiếp người yếu thế
trong xã hội, một xã hội lấy sức mạnh
của người có địa vị, tiến của ,háo sắc làm giá trị sống. Vì vậy, tính cách và những
phẩm chất của Kiều tượng trưng cho tất cả những gì là đẹp, là tinh hoa
của con người . Hình ảnh Từ Hải xuất hiện như một vì sao rực rỡ xua tan bóng
đêm bất công, tàn bạo, là bản hùng ca về lẽ phải, công bằng .
2 . CHÍ PHÈO ( Nam Cao )
Không mong mỏi “lộc trọng quyền cao” trong Kiều, mà với Chí Phèo, một
chàng trai tuổi hai mươi ,chân chất,
cần kiệm, chỉ “ ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt
vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào
ruộng làm.” Có vợ, có một gia đình nho nhỏ, đó là hạnh phúc, tình yêu. Có
ruộng nghĩa là đã có chút tài sản sau
nhiều tháng năm cần cù, tích cóp, chồng làm thuê, vợ dệt vải . Có danh , là một
nông dân, xóa bỏ cái thân phận làm tá điền cuốc mướn, cày thuê . Chỉ thế thôi.
Trong khi đó, chức quyền, vàng bạc, mê
đắm sắc dục trong Bá Kiến được thỏa mãn đầy đủ, thế như ng lão vẫn ghen
tuông với Chí, một con người hiền lành,
có lòng tự trọng. Một cơn ghen vì tình, đã biến một
nông dân hiền lành thành “ thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn
vạ” là con quỷ dữ của làng Vũ Đại , phá nát mọi ước mơ chân thật của anh ta .
Từ đây, tác giả đã đẩy câu chuyện qua
nhiều bước phát triển đầy kịch tính .
Ước mơ đẹp bị hủy hại, cuộc sống bị đè
nén, nhân hình đến nhân phẩm bị chà đạp
, một bộ phận nông dân đã phản kháng bằng con đường lưu manh . Tác giả còn phát hiện và khẳng định nhân phẩm đẹp đẽ của người nông dân .Từ đó, tác giả gián tiếp phê phán tình trạng
tha hóa nặng nề của nông thôn Việt Nam
trước cách mạng tháng Tám : giai cấp địa
chủ đề cao quyền lực, tiền của, nhan
sắc, xem đó là những thước đo giá trị con người, đẩy
biết bao dân lành xuống vực thẳm đau thương . Tác giả mơ hồ cảm thấy
mối xung đột giai cấp ở nông thôn ngày càng khốc liệt, mối căm thù âm ỉ
trong lòng người dân thấp cổ bé họng,
khi một thế hệ mới ra đời, dù Bá Kiến và Chí Phèo không còn .
3 CHA CON NGHĨA NẶNG (Hồ Biểu Chánh)
Tiểu
thuyết Cha Con Nghĩa Nặng lên án nạn cậy dựa tiền của, thân thế cao trọng của giới cầm quyền trong thôn trang, khiến hạnh phúc ngỡ êm ấm của người dân lành
tan nát . Hương Hội Hào đã có vợ con, nhưng lại dùng có vỏ chức sắc và
chút mồi chài đã chinh
phục được con tim si mê bả lợi danh của
Thị Lựu, vợ Trần Văn Sửu, và kết của cuộc ngoại tình ấy là Bé Sung, mà người
chồng vẫn ngỡ là con mình. Đỉnh điểm của
cuộc tình tay ba, lại là một nút thắt tạo tình huống cho những trang tiểu
thuyết thấm đẫm nước mắt là vợ chồng
xung đột khi Sửu tình cờ phát hiện
vợ dan díu với kẻ khác , chị vợ lại bao
che cho nhân tình, rồi chịu lấy cái chết thảm thương.
Câu
chuyện phát triển với nhiều tình
tiết xoay quanh ba chữ danh-lợi-tình .
Sung bị bệnh chết, còn Tí và Quyên hiền lành, chăm chỉ, được những nhà giàu có
muốn cưới gả. Từ tình yêu, họ có của cải. Nhưng còn vướng một chuyện, đó là
họ còn có một người cha từng là can phạm,
nghĩa là tiếng tăm cha không đẹp . Bị bố vợ xua đuổi vì lý do này, Sửu quyết
định tự tử . Nhưng những đứa con giàu lòng hiếu thảo hơn cả bạc vàng, quyền thế
và hạnh phúc riêng tư, đã đứng lên bảo vệ cha.
4. SỐ ĐỎ ( Vũ Trọng Phụng )
Nhưng
mọi thứ đều có hai mặt . Con người
đã biến những khát vọng đẹp đẽ ( danh
thơm tiếng tốt, giàu sang,hạnh
phúc ) thành tham vọng. Có khi tham vọng trở nên lố bịch và nhố nhăng, khiến bản
chất ban đầu của con người là “
nhân chi sơ tính bổn thiện” bỗng biến dạng, méo mó, vô cùng tàn độc với đồng
loại, với cả những người thân yêu đáng
kính trọng, bởi vì họ có mắt mà như mù, có tai mà như điếc, có tim mà trống
rỗng Xã hội
ấy đã suy tôn một thần tượng là kẻ vô học,thiếu đạo đức nhưng gặp vận may là
rơi vào xã hội thượng lưu của họ .Với họ, những giá trị cao quý trong đời
người chỉ là địa vị, tiếng tăm, là sự
giàu sang xa hoa, và cuộc sống đề cao
lạc thú tầm thường .Nhà văn Vũ Trọng
Phụng đã dựng lại bi kịch này trong
tiểu thuyết Số Đỏ . Bối cảnh mà ông chọn là Hà Nội và giới thượng lưu ở đây
những thập niên 30 của thế kỷ trước . Những trang tiểu thuyết đã lên án gay gắt
xã hội đồi bại đương thời, chà đạp lên
những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp bao đời. Từ đó, tác giả cắt nghĩa
cụm từ Số đỏ. Không phải gã Xuân tóc đỏ
gặp vận may, mà chính xã hội đó đã tạo nên “người hùng” của họ .
Dù chỉ tập trung phê phán phương diện đạo
đức , sinh hoạt của xã hội thượng
lưu thành thị giai
đoạn này, nhưng tác phẩm vẫn có màu sắc chính trị- thời sự và có tính
chiến đấu rõ rệt ( lên án và phủ định xã hội thực dụng đó )
Vũ Trọng Phụng sử dụng rất đắt các thủ pháp
chơi chữ, phóng đại, nói ngược ,bằng giọng văn lúc giễu nhại, lúc bông đùa tếu táo, cả cười cợt cay độc, khiến cho những
trang tiểu thuyết vô cùng sống động,
hiện trên trước mặt hậu sinh những con người hào nhoáng đẹp đẽ thơm tho, sống
phè phỡn trên nhung lụa . Nhưng nhìn kỹ, đó là những thây ma thối rữa.
5. CHỨC
PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN (Nguyễn Dữ)
Nhưng nhà văn Nguyễn Dữ ở thế kỷ XVI đã
mượn “ con ma” để tạc nên chân dung một nho sĩ yêu nước thương dân chân chính . Anh
chỉ là một hàn sinh, nhưng bức bối trước
cảnh dân làng triền miên trong bệnh tật
,đói kém, dù đã dâng cúng Thổ Công, vốn
hàng nghìn năm che chở bảo bọc dân, rất nhiều lễ vật.Đốt đền, như một giải pháp xua đuổi
vị Thổ Công dở chứng này hãy đi
nơi khác “làm ăn” . Tình huống của câu chuyện truyền kỳ đậm màu sắc hoang
đường nằm ở đây.
Từ
đây, tác giả lần lượt phê phán giới quan
chức tham lam nhưng mù quáng, tàn độc. Hồn ma một tên quan võ nhà Minh thất
trận, bỗng trở thành Thổ Công . Đó là một quan chức . Hắn có những lễ vật
nhân dân dâng cúng,bằng cách gieo rắc tai họa . Mặt phải mua chuộc quan lại gần
đó , mới mong mà yên bề hưởng lộc. Thủ
đoạn như thế, nhưng không lường được người dân đốt đền.
Từ đó, tác giả ca ngợi con người yếu thế
nhưng sáng suốt và nhân ái. Tử Văn chỉ là một người học trò nghèo, nhưng vì
thương cảm người dân bị gã Thổ Công giả
quấy nhiễu, nên đốt đền. Hành động sáng suốt này không ngờ đã khôi phục
lại chức vụ cho vị Thổ
Công ở đây, từng là quan ngự sử thời Lý Nam Đế , ở đền đã nghìn năm
. Họ hợp tác với nhau, cùng Diêm
Vương, cũng là bậc minh quân, trừng trị bọn gian tà . Tác giả trân trọng viên quan Phán Sự mà Tử Văn được trao cho ,
một vị quan vừa hiểu biết, lại thương yêu dân lành.
6 . THƯỢNG
KINH KÝ SỰ ( Lê Hữu Trác )
Nhan đề đã cho chúng ta hiểu đây là một tác
phẩm ghi chép việc thật, người thật, cảnh thật. Cảnh kinh thành Thăng Long, cụ thể hơn, trong khuôn viên phủ Chúa
Trịnh, thời điểm từ tháng giêng đến hết năm ấy (năm 1781) . Việc thì chỉ
có thể gói gọn trong một cụm từ “ chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán”. Và dù
tác phẩm không có hư cấu, tình tiết này vẫn xem là nút thắt của cuốn ký sự đặc sắc này.
Trọn năm ra vào phủ Chúa, tác giả ấp ủ nhiều
tâm trạng, xuyên suốt tác phẩm là “ nỗi khiếp sợ lợi danh”. Cuộc sống, khung
cảnh, con người trong phủ Chúa mà tác giả gặp
đâu đâu cũng như được dán rõ hai từ ấy .Căn bệnh của Thế tử lên sáu, bị chứng bệnh về máu, nguyên nhân
theo tác giả “ ăn quá no,mặc quá ấm” , là bệnh của vua chúa . Cách chữa cũng
mang tư tưởng quyền quý . Thế tử là bậc thánh đế,làm sao có
thể dùng những vị thuốc nhặt nhạnh từ dưới đất đen như bạch truật (một loại rễ cây)thục địa
( đậu đen và hà thủ ô cô đặc ) can khương (gừng ) ngũ vị (năm vị ,ngọt chua, đắng,
cay mặn trong các loại cây lá hoang dại), lại do một ông già quê mùa từ trong rừng sâu mang đến. Trịnh
Sâm mất,tác giả vào phủ sụp lạy Trịnh Cán, ông chúa con khen chè ngọt,thích uống, nhưng tác giả buồn
khổ, chỉ vì cứ dùng mãi thứ thuốc khổ hàn, cho nên mới tai hại như thế
này . Thế tử năm tuổi lên ngôi ra thị triều, sau khi Chúa Trịnh Sâm băng hà nhưng mắc bệnh sợ gió,vừa
ra ngoài là cảm .Dùng thuốc quý, nhưng lại sinh thêm bệnh suyễn nặng.
Ngự y trong triều coi
trọng việc được khen thưởng hơn tính mạng
người bệnh Phương pháp chữa
trị của họ, như Lê Hữu Trác gay gắt phê phán ở những trang cuối tập ký sự: Phàm bệnh không thực thì hư ,thuốc chữa bệnh
không công thì bổ . Một năm nay cứ công phạt
mãi mà không bớt ,thì bệnh không thực mà hư, phải bổ chứ . Công không
xong, bổ không làm ,thì chữa bệnh bằng cách nào ? Làm thuốc thì phải nghĩ đến
việc cứu người chứ . Cái lòng trung của kẻ làm tôi trong nghề thuốc ở đâu ?
Nhưng trước những lời cao quý ấy, các thầy lang chỉ cười lạt . Với tác giả , họ
quen nịnh hót vua quan, buộc cấp dưới phải tôn kính, nên khinh khi tất cả
Chú bé là kết quả của cuộc hôn
nhân giữa chúa họ Trịnh và một cung nữ ,là một
người mà lịch sử ghi nhận đã gây ra nhiều
tai ách trong phủ chúa Trịnh và triều đình Hậu Lê, ảnh hưởng
tiêu cực đến tình hình chính trị - xã hội Đàng Ngoài , rất được
Chúa Trịnh Sâm sủng ái, Tuyên phi ngày đêm mưu tính việc giành lấy ngôi vị Thế
tử cho con trai. Nhưng Trịnh Cán là một thế tử ốm bệnh
. Chúa Trịnh Sâm tạ thế , kinh thành có biến loạn,vị Chúa con đã không qua khỏi . Người mẹ cũng
chết trong điên loạn. Ôi, danh vọng, giàu sang,lạc thú, hẳn đấy là nỗi lòng những
ai theo dõi tập ký sự này .
Từ tình huống này, tác giả đã kín đáo bày tỏ cảm nhận của mình về ba
nội dung trên đây một cách sâu sắc và thấm
thía .
. 7. TẤM CÁM ( truyện cổ tích dân gian )
. Ước mơ
có một cuộc sống thật đủ đầy, hạnh phúc vợ chồng tràn trề , trong tư thế một bậc mẫu nghi thiên hạ hẳn là khát
khao đẹp đẽ và đáng trân trọng của người lao động xưa .Có lẽ vì thế mà truyện
cô tích Tấm Cám ra đời .Tấm Cám cùng
tranh giành một chiếc yếm đỏ . Đó là
tình huống tạo một nút thắt vô cùng quan
trọng cho câu chuyện cổ đặc sắc này , bởi chiếc yếm rơi vào tay Cám rồi không thấy xuất hiện
nữa. Chiếc yếm đã gợi lên trong tâm hồn hai thiếu nữ về nhan sắc của mình , là
yếu tố quyết định hôn nhân. Nhưng sau đó là những tháng ngày xung đột quyết
liệt giữa mẹ con Cám và Tấm, để giành giật ngôi hoàng hậu.Những bước phát triển
này của câu chuyện dẫn đến cao trào:Tấm hội ngộ cùng vua trong
một quán nước của bà lão .Và những gì đến sẽ phải đến, mẹ con Cám bị trừng trị
đích đáng. Khát vọng về tình yêu trọn vẹn, về sự sang trọng ,giàu có của cha ông ta thật đẹp đẽ và đáng ngưỡng mộ,
bởi đích tới cuối cùng của cuộc sống
là gì ? Là danh vọng, tiền của, hạnh
phúc . Qua câu chuyện cố tích được đánh
giá đặc sắc nhất của kho tự sự , tác giả dân gian cũng muốn lên án những con
người cậy dựa quyền bính, dù là quyền
làm mẹ kế, mà tối tăm, tàn ác, lại tham lam, coi trọng địa vị, bạc vàng, tình yêu hơn mọi giá trị
cao quý và chân chính ở đời .
8. NGƯỜI
TRONG BAO ( Sê-khốp )
Ôi, danh vọng, ,lạc thú, vẫn là nỗi lòng của những ai đọc truyện ngắn Người Trong Bao của Sê-khốp, nhà văn truyện ngắn bậc thầy của thế
giới. Với cảm nhận của ông, tiếng tăm ,quyền lực, địa vị là đích tới của mọi ước mơ, nhưng nó cũng hủy
hoại con người ta. Nhân vật người thầy giáo dạy môn Tiếng Hy Lạp có nỗi khát
khao quyền lực thật kỳ lạ . Anh ta mượn một
cái vỏ uy quyền của người khác để khủng bố, đe dọa đồng nghiệp , cư dân trong phố, cả giới chức
sắc nhà thờ trong suốt mười lăm năm, Ai ai cũng khiếp sợ hắn,
chỉ vì họ phải “nhẫn nhục trước những lời
lăng mạ,không dám nói thẳng rằng mình yêu trung thực và tự do , vì cốt sao kiếm
được miếng ăn,ấm thân, vì một chức tước hèn mọn nào đó chỉ đáng mấy đồng xu” Tình
huống tạo nên cái gút cho câu chuyện nằm ở đây
Mọi
hoạt động mang tính nhân đạo đều vì hắn mà không thể thực hiện, vì những nơi ấy, hắn không được đóng vai trò lãnh đạo rõ nhất . Nhưng cuối cùng hắn bỏ ăn suốt một tháng trời, vì chính cô gái hắn
yêu đã trông thấy hắn ngã cầu thang rồi cười vang; mà kẻ xô hắn(là em
cô ta,đồng nghiệp mới về dạy ở chính ngôi trường của hắn ) trước đó nhất quyết
không hề tỏ
ra nao núng, sợ hãi ( như cư dân khắp thành phố này) từ những lời hăm dọa mang theo sức nặng ghê gớm
của cái vỏ quyền lực , lại là kể lột mặt
nạ, lột sạch sẽ mọi cái bao hắn mang để hù dọa mọi người . Cho đến một hôm,có người đã phát hiện ra một phần chân tướng của hắn. người thầy thường xuyên gói mình trong
những cái bọc thờ ơ, vô tâm trước
mọi chuyện, để che đậy con người thật “một
gã ton hót, mách lẻo ,là kẻ cố leo lên bậc thang công danh, một kẻ si tình Rồi hắn chết.. Nhưng rồi không
khí trong trường học, ngoài phố xá vẫn cứ
ngột ngạt. Sẽ hình thành một “ người trong bao” mới. Điều này đã khiến viên
bác sĩ Ivan – người được nghe ông thầy
giáo Burkhun , đồng nghiệp của Belikhop
kể chuyện ,thốt lên : Không,
không thể sống như thế mãi được.
9 . HỒN
TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Lưu Quang Vũ)
“
Không thể sống với bất cứ giá nào” . Không, không thể sống như thế mãi được. Thái độ kiên quyết của viên thầy thuốc Ivan
hay chính Sê-khốp cũng là thái độ dứt khoát của Trương Ba
trong vở kịch Hồn Trương Ba, Da Hàng thịt
cuả Lưu Quang Vũ.
Trương Ba trong mắt mọi người là một nông dân có tấm lòng thương yêu, có trí tuệ cao sáng. Ông bị các
vị tiên trên trời gạch nhầm tên trong sổ tử, thế là toàn thân tê cứng . Đế Thích bèn nhập óc và tim ông vào xác gã hàng thịt. Mọi rắc rối và phiền
toái nảy sinh từ đây . Cũng là biến cố đầu tiên kỳ lạ trong đời Trương Ba Hàng Thịt
là cái vỏ cho Trương Ba gửi linh
hồn, nên hắn luôn lèo lái Trương Ba, buộc
Trương Ba phải làm theo những đòi hỏi của hắn.Trong thân xác Hàng Thịt, Trương
Ba bỗng ham hố về danh ( ông bố đánh đập con cái tàn nhẫn ) , về lợi( thèm ăn ngon rượu
thịt) về tình (đam mê dục vọng, phụ nữ) Ông bỗng lạc lõng giữa bao người thân.
Bà vợ đau đớn vì “Ông bây giờ còn biết
đến ai nữa (danh ) – Không có vợ(tình)cũng như không có khu vườn nữa(lợi ).” Cô con dâu xót xa “Làm sao
giữ được thầy ở lại hiền hậu(danh),vui vẻ(lợi),tốt lành(tình) ở lại như
thầy của chúng con khi xưa”.Cháu gái hồi tưởng ông nội “người là một nông dân (danh)không thô lỗ , mà gắn bó
với mảnh vườn, cây cối (lợi)không vụng về, mà khéo léo, chiều chuộng trẻ con,
yêu quí chúng (tình )” Cả mảnh vườn cũng sẽ bị anh con trai đem đi bán để mở
cửa hàng thịt
Bây
giờ, trong xác gã Hàng Thịt ,Trương Ba là một ông bố tàn nhẫn(danh) một gã buôn thịt tham ăn
tục uống(lợi ) một người đàn ông đa tình (tình ) Trương Ba có trăm lần khẳng
định trước mọi người là “ nguyên vẹn, thẳng thắn, trong sạch” thì vẫn bị
chê bai nực cười thật !
Gã Hàng Thịt sống bản năng, không ai lên án
hắn vì những yếu tố ấy không vi phạm luật
pháp, nhưng với Trương Ba lại là nỗi khổ tâm . Một con người sống “ nguyên vẹn, thẳng thắn, trong sạch”trở nên như điên dại. Trương Ba nhận ra
nguyên nhân :Sống nhờ vào đồ đạc,của cải
của người khác, đã là chuyện không nên, đằngnày cái thân cũng phải sống nhờ người đó .
Trương Ba tỉnh táo hơn (Không thể bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn ) nhân ái hơn (Hồn
anh hàng thịt sẽ sống hòa thuận được với thân anh ta. Còn chị vợ của anh ta
nữa, chị ta thật đáng thương.
Trương Ba lại trở về trong vị trí người chồng, người cha, người ông (danh ) ông
đem quả ngọt cho lũ trẻ, cho cuộc đời (lợi)ông vẫn gần gũi bên người vợ hiền
(tình ).Thật bình dị, mà đánh mất rồi tìm lại, mới thấy ý nghĩa biết bao.
10
.LỤC VÂN TIÊN(Nguyễn Đình Chiểu )
Tiểu thuyết chương hồi Lục Vân
Tiên là bộ truyện thơ được nhân dân Nam
Bộ yêu quí. Tình huống truyện đặt ra mang màu sắc truyện thơ dân gian, nay
người ta gọi là tình huống anh hùng cứu mỹ nhân.
Bởi mang trong mình giòng máu “ giữa đường dẫu thấy bất bình mà tha”, đang
trên đường đi thi, cứu người là trách nhiệm của đấng nam nhi, cũng là tính
nghĩa hiệp của người dân Nam Bộ, chẳng mong được trả ơn, Lục Vân Tiên đã bẻ cây
đánh cướp Phong Lai, cứu nguy cho cô cháu Kiều Nguyệt Nga, Kim Liên. Đó là tình huống nhận thức .
Từ cái “ nút thắt” này mà nhà thơ mù của đất Nam Kỳ “đã nhìn thấy” rất
rõ và lên án xã hội suy yếu ,loạn lạc . Bọn độc ác, phản trắc, trộm cướp nổi lên khắp nơi, , gian thần lộng
hành, giặc ngoài xâm lược, vua bất lực, nhân dân khốn khổ trăm bề . Nguyễn
Đình Chiểu nghiêm khắc phê phán, đồng
thời ca ngợi những con người như Lục Vân
Tiên, Hớn Minh đã cùng với nhân dân đứng lên cứu nước. Tác phẩm
“ là bản trường ca ,ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý ở đời” (Phạm
Văn Đồng)
*Tình huống tâm trạng Tình huống tâm trạng
thường dẫn tới một kiểu nhân vật là: con người tình cảm. Nghĩa là kiểu
nhân vật được hiện lên chủ yếu
bằng thế giới nội cảm của nó, nhà
văn tạo dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ thống chất liệu là cảm
xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Còn các khía cạnh khác (như ngoại
hình, hành động, lí tính…) ít
được quan tâm. Và vì thế, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện: truyện ngắn trữ tình
1. CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ ( Nguyễn Tuân ) :Lấy bối
cảnh là khuôn viên một trại giam ở vùng Sơn Tây
dưới thời nhà Nguyễn, nơi dừng
chân cuối cùng của sáu kẻ phản nghịch, trong đó có một tử tù đặc biệt ,xuất
thân là một trí thức, từng là Huấn đạo họ Cao , giỏi võ nghệ, lại quý trọng chữ và tham gia khởi nghĩa, chống triều đình, đấu tranh giành cơm áo cho dân
nghèo. Vị quản ngục, kẻ nắm quyền giam giữ Huấn Cao lại luôn
khát khao có bức thư pháp do chính Huấn Cao viết để treo trong nhà, vì
đó là báu vật.Đối diện Huấn Cao, một sĩ phu yêu nước, thương dân, tính cách
khẳng khái , không cúi mình trước vàng ngọc, quyền thế , Quản ngục thấy mình đã chọn nhầm nghề.
Từ những chi tiết này, nhà văn đã dựng lên một tình huống éo le
: liệu ông có được Huấn Cao trao tặng báu vật này không ?
Từ tình huống này, một giá trị sống thật cao
quý được tôn vinh : đó là chữ. Chính vì “ chữ” mà Huấn Cao không “ép mình
vì vàng ngọc hay quyền thế” mà tham gia khởi nghĩa, vì “chữ” mà Quản ngục ray rứt “ mình đã chọn
nhầm nghề mất rồi”khiến Huấn Cao cảm động trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài của thầy tớ Quản Ngục ( Biệt nhỡn là con mắt đặc
biệt hàm ý thái độ kính trọng người khác bằng những cách đặc biệt ; liên tài là thương người có
tài mà không gặp vận may) Câu chuyện kết thúc không ở riêng cảnh
cho chữ,mà hình ảnh Huấn Cao hiên ngang ra pháp trường,còn quản ngục gạt lệ từ
quan .
. 2 HAI ĐỨA
TRẺ (Thạch Lam) :Thạch Lam viết nhiều truyện
ngắn,dạng không có cốt truyện. Lấy bối cảnh là một phố huyện
nghèo miền đồng bằng sông
Hồng,thời điểm trước cách mạng tháng Tám , gần một nhà ga ,
nhưng về đêm vô cùng tối tăm và vắng lặng . Thời gian truyện kéo dài từ hoàng
hôn đến tận khuya . Nhân vật chính là hai đứa trẻ , Liên chín tuổi, và An tám
tuổi. Tình huống tác giả đặt ra là chúng thấp thỏm chờ
chuyến tàu cuối cùng từ Hà Nội về miền núi, băng qua phố huyện,
vào lúc trời về khuya . Tại sao ? Chuyến tàu hằng đêm mang lại cho chúng ba điều đối lập
với cảnh phố huyện nghèo (những toa sang
trọng)vắng lặng (tiếng còi tàu, tiếng
bánh xe rít vào đường sắt ) tối tăm (đèn
tàu sáng trưng, đồng kền lấp lánh ). Chờ đoàn tàu mất hút trong đêm, họ thanh
thản chìm vào giấc ngủ . Và cứ thế . không cao trào, không xung đột .
Từ tình huống
này, tác giả sẽ dẫn người đọc đi tìm
hiểu khung cảnh phố huyện kéo dài từ lúc
mặt trời lặn đến nửa đêm như thế nào,cuộc sống cư dân ở đây ra sao, nhưng nét
đẹp tâm hồn họ là gì . Cuối cùng, tác giả đưa ra một giá trị của cuộc sống:
dù sống trong nghèo khổ, tối tăm, vắng
vẻ, nhưng tâm hồ luôn biết hướng ra ánh
sáng, no ấm và đông vui , dù chỉ qua một chuyến tàu đêm từ Hà Nội, quê hương
của hai đứa trẻ .
3. ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ ( Hemingway ):Đây là một truyện vừa của nhà văn Mỹ đã đạt
giải Nobel văn chương năm 1950. Tác phẩm
kể lại chuyến ra khơi một mình vào ngàythứ 85 của ông lão Santiago , sau 84 ngày
triền miên thất bại . Phần đầu , tác giả
cho chúng ta thấy cuộc sống cơ cực của ông lão tuổi ngoài bảy mươi này :
góa vợ, sống trong một túp lều ven biển
, mọi thứ trong nhà đều là con số 1 : một
giường, một bàn, một ghế.Ông có một người bạn thân, chú bé hành xóm mười tuổi .
Có con số 2 là những bức ảnh tôn giáo treo trên vách. Bữa ăn của ông đã đạt đến số 3: cơm gạo vàng, đậu và cá. Phần tiếp theo , tác
giả cho biết ông lão không mơ danh vọng, tiền của hay sắc dục như mọi ngư dân khác . Với ông, biển chính là người phụ nữ ông yêu
quí. Ông ra biển đánh cá để thỏa
mãn nỗi
khao khát của một ngư phủ . Trong ông , niềm đam mê lớn là tôn thờ cầu thủ bóng chày Ma Diago và trong giấc mơ luôn mong mỏi được gặp chú sư
tử châu Phi kiêu hãnh . Thế thôi. Và đây chính là tình huống truyện. Từ một
nút thắt này, tác giả dẫn chúng ta theo dõi hai cuộc chiến : giữa ông lão và
con cá kiếm, sau đó là giữa ông lão và
đàn cá mập, để bảo vệ con cá kiếm, khi lũ cá này xông đến, giành giật thành quả của ông .Dự
định “ sẽ có một mùa đông đầy đủ” tiêu
tan. Thế nhưng ông về lều ngủ ngon. Trong giấc mơ, ông gặp lại chú sư tử châu
Phi quen thuộc . Với tác giả, tất cả chỉ là một phần tám của nội dung. Bảy phần còn lại trong “ tảng băng chìm”, tự chúng ta cảm nhận.
4.
ROMEO VÀ JULIET ( Shakespear) Vở
bi kịch đậm chất lãng mạn của nhà biên kịch nổi tiếng của nước Anh và
thế giới có một tình huống gay cấn : đôi
bạn trẻ yêu nhau khi gia đình hai bên lại là kẻ thù truyền kiếp . Trong
khi đó, cha mẹ cô gái đã có ý định gả
chồng cho cô rồi . Vậy họ phải làm sao để gìn giữ hạnh phúc ? Câu hỏi này
đã khiến biết bao khán giả tò mò theo dõi vở bi kịch đặc sắc này .
5 .NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
(Victor Hugo): Jean Valjean một cựu tù
khổ sai . Anh dường như sống trong địa
ngục vì cả xã hội quay lưng với anh .Anh
đã đánh cắp một món đồ quý của nhà thờ và bị bắt . Nhưng vị tu sĩ ở đây, giám
mục Myriel cứu thoát khi nói với cảnh
sát rằng đó là đồ ông tặng cho Valjean. Khi chia tay vị Giám mục già nói với
Jean Valjean rằng anh nhất định phải trở thành một người lương thiện và làm
nhiều việc tốt cho mọi người . Giăng Vangiăng chỉ vì một câu nói, một hành động cao quý
của linh mục Mirien mà thay đổi hoàn toàn. Suốt quãng đời còn lại, ông luôn làm
những việc thiện, hy sinh cả hạnh phúc của mình vì người khác. Giăng Vangiăng
là biểu tượng sáng ngời của sự tu thiện .
IV . KẾT LUẬN :
1.Mọi tác phẩm tự sự đều mang theo một tình huống
chứa đựng chủ đề tư tưởng của tác phẩm
đó.Đó cánh cửa chính của mọi ngôi nhà .Mở
được cánh cửa này, chúng ta có cơ hội thâm nhập ngôi nhà, đi sâu vào việc khám
phá những giá trị đặc sắc của tác phẩm văn chương.
2.
Phải đọc tác phẩm nhiều lần, xác định cụ thể tình huống,là bước đầu tìm được niềm
hứng thú khi tận hưởng một tác phẩm nghệ thuật.
Dalat 4.06.2015
No comments:
Post a Comment