Monday, August 26, 2019

Bài 5 TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN - CA DAO HÀI


Bài 5
                       TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN -    CA DAO HÀI
                    
                  NHƯNG NÓ PHẢI BẰNG HAI MÀY- TAM ĐẠI CON GÀ
I.                   NHỮNG ĐIỀU LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TÌM HIỂU TÁC PHẨM
1.     Định nghĩa

         Truyện cười dân gian là một trong những thể loại  tự sự tiêu biểu cho dòng văn học dân gian , do nhân dân lao động sáng tác ,  vận dụng một số thủ pháp gây cười , để  qua tiếng cười  mang tính giải trí và đả kích , châm biếm, có khi chỉ dừng lại hài hước  , mua vui . Truyện cười dân gian  vừa mang những yếu tố một truyện ngắn,có cốt truyện, nhân vật, tình tiết ; nhưng kết cấu, diễn biến của truyện, nhân vật được thể hiện chủ yếu qua hành động, ngôn ngữ và xung đột, nên  đọc luôn có cảm giác xem một vở hài kịch ngắn.
          Ca dao hài mang không khí tự sự. Có bài gọn gàng như một vở hài kịch,có bài để lại những phương châm sống hay chỉ để giải trí.
  Các thủ pháp gây cười : phóng đại, chơi chữ, nói ngược ( tương phản ).

2.      Phân loại
     Có hai loại truyện cười . Truyện khôi hài chỉ nhằm giải trí. Truyện trào phúng có nội dung đả kích, phê phán , giáo dục nhiều hơn .
     Truyện trào phúng cũng có hai nhóm  .Nhóm thứ nhất giễu cợt những tính cách xấu nói chung, không mang tính xác  định xã hội cụ thể . Nhân vật cười là những anh chàng tham ăn, nói khoác, đãng trí , sợ vợ..
     Nhóm thứ hai miêu tả những biểu hiện hài hước của những tính  cách xấu gắn liền với bản chất của các tầng lớp xã hội  cụ thể . Cái hài nằm trong những con người mang những thói xấu đi ngược lại những quan điểm đạo đức, xã hội của nhân dân , bộc lộ qua những hiện tượng trái tự nhiên ,vừa gây nên những phản ứng về mặt tư duy lô gích  ,vừa gây nên những hậu quả về mặt đạo đức-xã hội .Nhóm truyện này thường nêu chỉ ra lên những tính cách xấu gắn liền với bản chất của những tầng lớp xã hội nhất định ; nhân vật có tính xác định xã hội cụ thể , có tên gọi nói lên thành phần của mình : lý trưởng,thầy đồ, quan huyện …Thói xấu của họ gắn liền với bản chất xã hội của từng tầng lớp người , thí dụ  như thói dấu dốt của thầy đồ, thói cửa quyền của lý trưởng
    
    Nhóm truyện này thể hiện tập trung những quan điểm chính trị-xã hội của nhân dân, tính chiến đấu sắc bén của truyện cười, một  vũ khí đấu tranh xã hội, đấu tranh giai cấp của nhân dân lao động thời xưa .
II.                TÁC PHẨM

1.     Nhóm truyện:
      Hai truyện cười “Tam đại con gà ” và “Nhưng nó  phải bằng hai mày” là những truyện trào phúng tiêu biểu .                      2. Cắt nghĩa từ khó :

a.       Nhan đề : Nhan đề hai truyện ngắn này  đã gây sự chú ý . Trong quá trình đọc hiểu, nhan đề sẽ  được hé mở từ từ .     Hai truyện đưa ra hai nhân vật   thuộc tầng lớp có địa vị xã hội trong làng :  Thầy đồ và lý trưởng .Thầy đồ (thầy là người có học, được xã hội quý trọng , đồ là  người đi học  ) chính là người cung cấp  kiến thức,răn dạy  đạo đức cho lớp trẻ .Gọi thầy đồ (thầy dạy  con trẻ ) để phân biệt với thầy cúng, thầy bói ,thầy địa lý … trong làng .Lý trưởng (lý là thôn làng, trưởng là người đứng đầu một thôn )Đây là đơn vị hành chính nhỏ nhất của một nước ta ngày xưa. Lý trưởng chẳng khác nào đại diện vua ở triều đình để cai quản dân ( có đông đảo nhân dân, đất đai rộng,có người lãnh đạo )  Người dân có những khát vọng gì về hai vị công bậc này? . Phải sáng suốt, nhân ái , nghĩa là hiểu biết , công bằng, bảo vệ quyền lợi người nghèo .
b.     Tam thiên tự: ( ba ngàn chữ )  là một cuốn sách cổ, do Ngô Thì Nhậm soạn, dạy chữ nho cho người Việt. Tên sách nghĩa đen là "ba ngàn chữ", xếp 3.000 chữ nho và nghĩa tiếng Việt giải nghĩa , như một bài vè cực dài. Mỗi câu hai âm, khi đọc lên luôn có vần nên rất  dễ nhớ. Cuốn sách "Tam thiên tự   của Đoàn Trung Còn (1950-60) có  3.000 chữ Hán(theo cuốn "Tam thiên tự") cổ nhưng dịch nghĩa và phiên âm bằng chữ quốc ngữ. Sách bắt đầu với:  Thiên - trời,  Địa - đất,  Cử - cất ,  Tồn – còn,  Tử - con,  Tôn – cháu ,  Lục – sáu,  Tam – ba,  Gia – nhà,  Quốc - nước . Sách kết thúc với: Tự - chữ 
      Tam thiên tự vẫn thông dụng và tới nay cũng còn nhiều người sử dụng.
c.       Đặc điểm của chữ Hán : Chữ Hán là chữ tượng hình . Người học có thói quen dựa vào hình ảnh sự vật trong  đời sống để suy luận nét chữ đang học . Thí dụ chữ ,mang hình ảnh một người đứng dang chân , học trò suy ra nhân (người) . , một nét ngang, một nét thẳng,chỉ lên trên ,nghĩa là “thượng ”(trên) đối lập với “hạ” http://hvdic.thivien.net/pic/kt/fg2paNPg7RZfBFh7xxOYMA.gif (dưới ) .
 .  d. , đọc là kê: chỉ con gà.   Cò, dân quê gọi là con dù dì .Cú, dân quê gọi là con dủ dỉ ,thuộc bộ lông vũ gắn bó với cuộc sống hằng ngày của người lao động, 
      năm đồng :có giá trị đến bốn  chục cân thóc, là  kết quả khó nhọc  cả một vụ mùa
eCải Ngô: những nông dân nghèo, sống nương nhờ cọng rau cải, cái bắp ngô
fThổ Công :còn được gọi Ông Địa và người ta lập bàn thờ đặt ở mặt đất Nhiều nơi, vì ảnh hưởng Trung  Hoa còn gọi Ông Địa  Thần Tài (mọi thứ đều từ đất mà ra). Do đó, Thổ Công là một trong những vị thần quan trọng trong gia đình, bên cạnh Táo quân. Đứng ở ngoài nhìn vào: Bát hương thờ Thổ công ở giữa, bên trái là bát hương bà Cô Tổ, bên phải là bát hương Gia Tiên. Khi cúng lễ, đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về. Việc cúng Thổ công Cũng là một  vấn đề khá lý thú với người Việt Nam ta.. Những người Hoa Kiều và một số người miền Nam thường khi cúng thổ công thì ăn trước một miếng trước bàn thờ thổ công (vì theo một vài sự tích thì thổ công bị đầu độc và chết, nên ông rất sợ bị chết vì vậy khi ai cúng ông thì phải ăn một miếng thì ông mới dám ăn), còn người miền Bắc thì họ vẫn cúng như bình thường.

3  Tóm truyện : Hai truyện có kết cấu giống nhau , cho nên có thể gom lại trong một cột tóm truyện chung ,
  a. Phần giới thiệu nhân vật , ta thấy một anh học trò nổi tiếng thông minh , được mời làm thầy- một lý trưởng có tiếng xử kiện giỏi, được dân làng tin tưởng .
     b    Đến thắt nút, tình huống khá ly lỳ  xảy ra : Thầy  cứ loay hoay với chữ “Kê”(gà) trong ba ngàn chữ,còn  lý trưởng nhận hối lộ cả bên nguyên lẫn bị khi chưa xử án .
    Thắt nút là yếu tố quan trọng trong truyện, càng vô cùng cần thiết trong kịch . Ở truyện cười dân gian cũng thế . Tác giả dân gian có thể không biết đọc viết, chưa qua một lớp học nào về lý luận văn học, nhưng họ nắm bắt tình huống rất tài tình . Từ “tình huống thắt nút” này, có thể có thật trong đời sống của người dân quê ngày xưa,cũng có thể hư cấu, nhưng đây là linh hồn câu chuyện đậm màu sắc chiến đấu này , để người lao động công kích, lên án bản chất xấu xa của giới trí thức phong kiến từ cấp thấp nhất . Không có tình huống thắt nút này, vở hài kịch sẽ không hình thành . Rõ ràng, tác giả dân gian đang mời chúng ta xem hai vở hài kịch trong một màn diễn . Bàn chân con cò (cò, dân quê gọi là con dù dì ) rồi bàn chân con cú (cú, dân quê gọi là con dủ dỉ ). Thực sự bàn chân của ba con  vật thuộc bộ lông vũ này, gắn bó với cuộc sống hằng ngày của người lao động,  rất giống nhau.

    Từ tình huống thắt nút, ta thấy có sự tương phản giữa bản chất (thầy và quan đều giỏi) mà hiện tượng thì …
    Vậy hai nhân vật tai mắt này phải làm sao, để chứng tỏ mình vẫn giỏi ?
    C . Phát triển của câu chuyện. Thầy cho trẻ đọc nhỏ, rồi cậy nhờ Thổ Công chỉ vẽ, bèn  cho trẻ đọc to:Dủ dỉ là con dù dì . Lý trưởng  phạt kẻ đưa hối lộ ít... Người học thường  chú ý bàn chân con gà qua những nét chữ mà thầy cho là rắc rối ,  học  trò lại hỏi gấp, khiến thầy không thể nhớ được cụ thể, trong đầu thầy hiện lên bàn chân con cò (cò, dân quê gọi là con dù dì ) rồi bàn chân con cú (cú, dân quê gọi là con dủ dỉ ). Thực sự bàn chân của ba con  vật thuộc bộ lông vũ này, gắn bó với cuộc sống hằng ngày của người lao động,  rất giống nhau.
             Cuốn sách ba ngàn chữ dễ học, dễ nhớ như thế, nhưng người thầy thì … quên. Thổ Công cũng  đồng lõa với thầy , có lẽ e sợ quyền uy của thầy chăng ?

 Còn với Lý trưởng . Chưa  vội tìm hiểu ai đúng,ai sai, chỉ biết nương nhẹ kẻ có quà cho ngài nhiều hơn,gấp đôi . Ta biết thời xưa , đồng tiền rất có giá trị .Một đồng có 10  hào. Ba hào mua được một nải chuối độ hai mươi ngàn bây giờ. Như vậy, một đồng tương đương với độ 80 ngàn đồng .Tuy nhiên quy ra thóc gạo mới thấy số tiền năm đồng Cải lo lót cho quan lý không nhỏ, vì giá thóc  rẻ hơn giá chuối , năm đồng có giá trị đến bốn  chục cân thóc, là  kết quả khó nhọc  cả một vụ mùa . Ngô biện gấp đôi. Anh ta có giàu hơn Cải không ? Tên gọi đã cho thấy họ chỉ là những nông dân nghèo, sống nương nhờ cọng rau cải, cái bắp ngô . Cải vì thiếu “thực tế”nên dù   đút tiền, vẫn bị đòn đau .
  d  Đỉnh điểm .Xung đột  căng thẳng giữa nhân vật chính với nhân vật trong truyện buộc phải giải quyết tức khắc. Người cha đứa học trò ngỡ ngàng khi thấy  thầy dạy chưa đúng  . Nạn nhân vụ án phát hiện ra cách xử “không hợp lý ”của lý trưởng. Rõ ràng, cả thầy đồ và ông lý đều sai,nhưng có ai làm chứng?. Bọn trẻ không biết, Cải cũng không thể nào tự minh oan cho mình .
 Nhưng có một người biết: người kể chuyện.Tác giả dân gian đã chứng kiến đầu đuôi nhưng không hề tạo cho mình một “điểm nhìn ”để lên tiếng cho nạn nhân .
e.      Mở nút :Chính vì vậy mà tiếng cười vỡ òa phần mở nút mới có sức công phá thật khủng khiếp . Cả hai nhân vật đại diện cho những bậc  phụ mẫu (lý trưởng) hay hơn cả phụ mẫu nữa (quân,sư ,mới đến phụ mà !) đều dành phần thắng . Cả hai đều  dùng những lý lẽ trái với quy luật tự nhiên, gây tiếng cười òa , nhưng người trong cuộc , những nạn nhân, chỉ biết cúi đầu cam chịu ,Này nhé, thầy dạy đến ba  đời con gà đấy .Lý trưởng thì công minh: ai “phải bằng hai” hơn thì người đó được trắng án . Thầy đồ thì dùng biện pháp phóng đại hay chơi chữ ,còn lý trưởng thì  lối chơi chữ của ông thật trên cả tuyệt vời .
          III ĐỌC HIỂU

          Từ cốt truyện , tác giả dân gian muốn nói lên những điều gì ?

1.     Họ  vạch trần sự dốt nát –tham lam của giới trí thức phong kiến xưa .
 Chỉ tác giả dân gian mới thấy rõ nỗi nhầm lẫn tai hại giữa bàn chân ba con : gà(kê) cú(dủ dỉ) cò(dù dì ) trong đầu thầy . Tác gỉa  dân gian biết rõ cách “tra cứu”của thầy : cậy nhờ Thổ Công ;lại để Thổ Công  “chơi xỏ ” thầy . :Chỉ người kể  mới chứng kiến tường tận cảnh Lý trưởng  nhận hối lộ cả hai bên nạn nhân và thủ phạm .Người dân vẫn tưởng lý trưởng  giỏi xử án
    2    Tác giả dân gian lên án kẻ quyền thế, bênh vực kẻ yếu  thế :
Kẻ trong cuộc bao gồm  lũ học trò , người bố, Cải ,Ngô .. cam chịu sự hống hách lộng quỳên của bọn thống trị (kê là tam đại con gà- Ngô  đã phải đóng  gấp đôi Cải  nên Ngô thắng kiện )
         Tác giả dùng  biện pháp phóng đại và chơi chữ  (tam đại con gà ) chơi chữ (phải bằng hai )để tạo tiếng cưồi, vạch trần sự cậy quyền của đối thủ , những kẻ ấy không xứng đáng làm bậc cha mẹ dân .
     3.    Tác giả  kết án bản chất xấu xa của giới thống trị :
Sự tàn bạo, thiếu trách nhiệm , bất người dân lành dốt nát hay nghèo khổ ra sao . Thầy lấp liếm , đổ lỗi   cho  Thổ Công , còn Lý trưởng thì nhẫn tâm và trắng trợn một cách  trơ trẽn nhất.Phải ,kẻ thắng là kẻ hối lộ, quà cáp nhiều cho thầy .

     4.  Tác giả  chỉ  ra tội ác do giới quan chức phong kiến  gây ra .
    Thầy giáo  sẽ gieo tai hoạ đời cha,đời con,đời cháu khi truyền dạy sai sự thật ;Lý trưởng sẽ đặt gấp đôi sự thống trị lên đầu cổ nhân dân 
   Từ đó, người lao động xưa gửi gấm ước mơ về một xã hội tốt đẹp ,có vua quan sáng suốt ,nhân ái
    Điều này ta thấy Cụ Phan Chu Trinh phân tích rất rõ trong bài diễn thuyết về  luân lý đông tây cho thanh niên năm 1925 tại Sài gòn . Người phương tây có học , biết đoàn kết nên sẵn sàng bênh vực nhau, vì biết rõ hễ người A bị ức hiếp, nạn nhân tiếp theo sẽ là B .Người phương đông chúng ta không có trình độ văn hóa cao nên nhận thức kém,  sống chia rẽ . Ngô không biết anh đang bị lý trưởng bóc lột . Cải Ngô đã  giúp hầu bao lý trưởng nặng hơn . Rồi thầy giáo sẽ đào tạo ra một lớp  trí thức với lý tưởng sống nhỏ bé, đó là làm thế nào gây chi rẽ trong dân, thì bản thân quan lại sẽ dễ thao túng . Họ không có tầm nhìn xa,vì từ việc phân biệt kê ,cú ,cò đã vô cùng khó khăn rồi .




        CA DAO HÀI       
I.                   GIỚI THIỆU:

  1. Ta thấy  hai vế đối lập nhau trong một  yếu tố đầy bất ngờ : những người đàn ông  cột trụ trong gia đình(chồng em ), cả ngoài xã hội (làm trai ) , trách nhiệm nặng nề và vẻ vang là “đáng sức trai, đi ngược về xuôi” , đứng với sứ mạng “ tề gia (chồng ) trị quốc ( làm trai )  đất nước giao phó . Bề ngoài họ rất bản lĩnh (khom lưng chống gối) Nhưng thực chất họ lại là “ gánh hai hạt vừng” hay còn tồi tệ hơn “ ngồi bếp sờ đuôi mèo” . Thủ pháp tương phản cho thấy sự yếu ốm  , lười  biếng, sống ỷ lại,dựa dẫm  của bậc tự vỗ  ngực là hiền nhân quân tử . Tiếng cười chua xót nhưng pha sự đồng cảm .
       2 .   Người phụ nữ xưa được đề cao bởi bốn nét đẹp : công,dung, ngôn, hạnh . Ở đây, tác giả đưa dung (nhan sắc) thành yếu tố hàng đầu :lỗ mũi rất nhiều lông, lại trễ nãi chăm sóc  tóc tai nên rác rơm đầy đầu  . Tiếp đến là ngôn ( lời ăn tiếng nói ) thì “nói” (ngáy ) cả …trong giấc ngủ .Với  công ( làm lụng chăm chỉ ) thì chị vợ lại “ hay ăn quà khi đi chợ”. Nhưng” người chồng lại “nhìn ra” những gì về “ tam đức” ở vợ ?   Về dung nhan, với chồng, ,  vừa  phóng đại ( mười tám gánh lông ) vừa tương phản ( râu rồng)vừa tả thực (trên đầu những rác ..) . Đấy là trời cho, là hoa thơm . Ngủ ngáy(theo chồng ) thì vui nhà  vui cửa . Lười làm lụng, lại mê quà  chợ, nhưng chồng khen “ về nhà đỡ cơmr” .
 Nhưng mỗi câu bát ta thấy bắt đầu bằng cụm từ , đứng vai một cụm chủ vị : chồng yêu . Vâng, dung nhan kém cỏi, lại không biết làm đẹp , nói năng vụng về , mê ăn uống , nhưng với cái nhìn  yêu thương, tất cả đều đẹp ( râu rồng, hoa thơm, vui nhà, đỡ cơm ) , bởi chị vợ có một nét đẹp nhất : thủy chung . Đức hạnh đẹp đẽ  ấy mới đem đến cho tiếng cười bằng thủ pháp tương phản nhiều ý nghĩa .
    Nhân vật cười là những anh chàng tham ăn, nói khoác, đãng trí , sợ vợ, hay những bà vợ thiếu  tứ  đức ( công dung ngôn hạnh ) Các bài ca dao hài hước trong chương trình Đọc hiểu văn bản lớp 10  thuộc  dạng  truyện này.  Để tạo tiếng cười  chế giễu,  tác giả dân gian dùng lối tương phản rất ấn tượng, độc đáo và sâu sắc  , qua những hình ảnh vốn gần gũi,quen thuộc với cuộc sống lao động, những  sinh hoạt bình dị nơi thôn dã ,những sản vật địa phương gắn bó như máu thịt .Bên cạnh đó,họ còn dùng thủ pháp nhại ; họ mượn nguyên mẫu những câu từ mang nét ngợi ca , từ đó đingược về xuôi là câu ca dao trong bản chính, tác giả dân gian có kết thúc bất ngờ : khom
II.                ĐỌC HIỂU
1             Bài cao dao 1(trang 90, SGK tập 1) là một vở kịch ngắn . Không gian làng quê nghèo, thời điểm chuẩn bị tiệc cưới cho  đôi bạn trẻ , hai con người lớn lên trong cảnh nghèo, khao khát cuộc sống hạnh phúc .
 Tình huống tạo thắt nút là mâm cỗ : tiệc phải có thịt của thú bốn chân, để mời đãi  cả làng .
Câu chuyện phát triển theo  hình ảnh chàng trai . Chàng trai  vốn có chút chữ nghĩa, hiểu  biết nhiều về luật pháp, sức khỏe , nên tâm tình cùng cô gái bằng  tấm lòng  thiết tha , đầy trách nhiệm với họ nhà gái . Anh tận dụng thủ pháp chơi chữ . Thú bốn chân có trâu bò, voi và cả  chuột , nhưng  mỗi con đem đến khuyết lẫn ưu . Voi thì ngại nhà nước cấm xẻ thịt . Con thú to lớn này anh … có sẵn, vì đã “toan”, nghĩa là từ suy tính sang hành động không hơn ba mươi giây ! Trâu bò cũng vậy, như đều sẵn sàng lên mâm,chỉ vì anh ngại sức khỏe nhà gái không tốt . Thịt trâu gây bệnh đau bụng, bò thì sinh ra  chứng thấp khớp .Nhiệt tình thiện chí của anh thể hiện qua các từ “dẫn trâu ,dẫn bò..thì …”
 Cuối cùng đành  chọn… chuột .Con chuột ngoài đồng rất dễ đặt bẫy, không tốn kém gì cả .Nhưng thời ấy   bếp núc chưa nghĩ ra món nào cho thịt chuột , đồng nghĩa là …trong mâm cỗ không có gì cả . Nhưng tấm lòng nhà trai thì ăm ắp . Nhà gái đẩy khâu chuẩn bị lên cao trào : ôi dào, thế là sang rồi .Nhưng làm sao  để vừa lòng bà con hai họ,xóm làng đôi bên?     Chuyện đi đến mở nút : thách một nhà khoai lang . Vườn trong thôn quê đều trồng sẵn khoai sắn . Xóm làng sẽ gom góp mỗi nhà vài bụi cũng đủ lễ vật cho chàng trai mang sang nhà gái .Khoai phục vụ tất cả mọi diện khách mời : củ to mời  làng, củ nhỏ mời  họ hàng, củ mẻ dành cho trẻ con ; thậm chí lợn gà cũng có phần cỗ cưới .Bởi yêu cầu cho tiệc là ai cũng được mời .Khoai lang đã đáp ứng trọn vẹn !
          
1.       Tiếng cười đồng cảm về  đấng phu quân Ta thấy  hai vế đối lập nhau trong một  yếu tố đầy bất ngờ : những người đàn ông  cột trụ trong gia đình(chồng em ), cả ngoài xã hội (làm trai ) , trách nhiệm nặng nề và vẻ vang là “đáng sức trai, đi ngược về xuôi” , đứng với sứ mạng “ tề gia (chồng ) trị quốc ( làm trai )  đất nước giao phó . Bề ngoài họ rất bản lĩnh (khom lưng chống gối) Nhưng thực chất họ lại là “ gánh hai hạt vừng” hay còn tồi tệ hơn “ ngồi bếp sờ đuôi mèo” . Thủ pháp tương phản cho thấy sự yếu ốm  , lười  biếng, sống ỷ lại,dựa dẫm  của bậc tự vỗ  ngực là hiền nhân quân tử . Tiếng cười chua xót nhưng pha sự đồng cảm .  Người phụ nữ nhận lấy những nghĩa vụ nặng nề một khi rời cha mẹ,theo chồng, cho nên hy sinh mọi thứ, cả việc  chấp nhận hôn nhân trọn đời với một người chồng kém cỏi. Hy sinh cũng là lẽ sống, là bổn phận của mọi người vợ, người mẹ .  Hơn nữa ,   nói ra xấu thiếp hổ chàng. Đó là quan niệm của người phụ nữ xưa để gìn giữ hạnh phúc gia đinh .
       2 .  Tiếng cười yêu thương về vợ vụng về :  Người phụ nữ xưa được đề cao bởi bốn nét đẹp : công,dung, ngôn, hạnh . Ở đây, tác giả đưa dung (nhan sắc) thành yếu tố hàng đầu :lỗ mũi rất nhiều lông, lại trễ nãi chăm sóc  tóc tai nên rác rơm đầy đầu  . Tiếp đến là ngôn ( lời ăn tiếng nói ) thì “nói” (ngáy ) cả …trong giấc ngủ .Với  công ( làm lụng chăm chỉ ) thì chị vợ lại “ hay ăn quà khi đi chợ”. Nhưng” người chồng lại “nhìn ra” những gì về “ tam đức” ở vợ ?   Về dung nhan, với chồng, ,  vừa  phóng đại ( mười tám gánh lông ) vừa tương phản ( râu rồng)vừa tả thực (trên đầu những rác ..) . Đấy là trời cho, là hoa thơm . Ngủ ngáy(theo chồng ) thì vui nhà  vui cửa . Lười làm lụng, lại mê quà  chợ, nhưng chồng khen “ về nhà đỡ cơmr” .
 Nhưng mỗi câu bát ta thấy bắt đầu bằng cụm từ , đứng vai một cụm chủ vị : chồng yêu . Vâng, dung nhan kém cỏi, lại không biết làm đẹp , nói năng vụng về , mê ăn uống , nhưng với cái nhìn  yêu thương, tất cả đều đẹp ( râu rồng, hoa thơm, vui nhà, đỡ cơm ) , bởi chị vợ có một nét đẹp nhất : thủy chung . Đức hạnh đẹp đẽ  ấy mới đem đến cho tiếng cười bằng thủ pháp tương phản nhiều ý nghĩa .

Câu hỏi : 1. Hãy kể tóm tắt  5 bước của vở kịch cầu hôn : phần khai đoan ( giới thiệu ) tác giả mô tả những nội dung gì ? Tình huống thắt nút ra sao ? Vở kịch diễn biến như thế nào ? Đâu là cao trào ? Kết  thúc(mở nút ) cho bạn suy nghĩ gì ? Tác giả dùng những thủ pháp nào để tạo tiếng cười ?
           2. Hai bài ca dao 2,3 ban  đầu dưa ra vấn đề gì ? nhưng yếu tố chính   được tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì ? Phản ánh điều gì ?
3. Bài ca dao này mô tả điều gì, bằng cách sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào ? ( Người phụ nữ xưa được đề cao bởi bốn nét đẹp nào ? Chị thể hiện ra sao ? Tấm lòng người  chồng như thế nào ? )
                               Dalat 03. 2017





          







·          



CA DAO HÀI       
Câu hỏi : 1. Hãy kể tóm tắt  5 bước của vở kịch cầu hôn : phần khai đoan ( giới thiệu ) tác giả mô tả những nội dung gì ? Tình huống thắt nút ra sao ? Vở kịch diễn biến như thế nào ? Đâu là cao trào ? Kết  thúc(mở nút ) cho bạn suy nghĩ gì ? Tác giả dùng những thủ pháp nào để tạo tiếng cười ?
           2. Hai bài ca dao 2,3 ban  đầu dưa ra vấn đề gì ? nhưng yếu tố chính   được tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì ? Phản ánh điều gì ?





No comments:

Post a Comment