Monday, August 26, 2019

Bài 16 THƠ MỚI VIỆT NAM -THƠ BẢY CHỮ ,TÁMCHỮ .



A NHỮNG HIỂU BIẾT LIÊN QUAN ĐẾN THỂ LOẠI
    I.   GIỚI THIỆU  CHUNG
1. Nguyên nhân hình thành :Trong bài tựa “Một thời đại trong thơ ca “ , in đầu  cuốn sách với nhan đề Thi nhân Việt Nam 1932-1941,  của nhà  nghiên cứu Hoài Thanh ,thì Thơ Mới   được  hình thành từ sau khi người Pháp  đã hình thành chính sách thuộc địa lên nước ta .Những tiện nghi mang tính vật chất của phương tây đã  có một  sự ảnh hưởng lớn đến tư tưởng, tâm hồn lớp trí thức theo tây hoc.
 Hai tờ báo Đông dương tạp chí và Nam phong tạp chí   do   đội ngũ này thành lập  cũng đã làm cho   chất Phương Tây “ đi đến chỗ sâu nhất  trong tâm hồn độc giả . Cảm xúc về  cuộc sống ,con người đã phai dần  chất phong kiến xưa cũ,  mang màu sắc mới . Họ yêu màu xanh , nao nao vì tiếng gà ban trưa, có cảm giác mát mẻ của cánh đồng xanh khi nhìn một thiếu nữ, ái tình  có trăm hình muôn trạng ,say đắm, thoảng qua, gần gũi, xa xôi; với người xưa thì thế nào :các  cụ thích màu đỏ, bâng khuâng tiếng trùng đêm khuya , cảm thấy tội lỗi khi bắt gặp người con gái, ái tình chỉ là hôn nhân …
 Một lý do nữa khiến thơ cũ bị thất thế, đó là chế độ khoa cử  của thời phải học kỹ  các thể thơ cũ đã  bị chấm dứt .Sĩ tử học tiếng Pháp đem thơ  mới lên ngôi .

1.       2   Khái niệm: Thơ Mới là cách gọi một trào lưu sáng tác thơ   xuất hiện tại Việt Nam vào những năm 30 của TK XX. Thể loại thơ này  do các tác giả thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản theo tây học chịu nhiều ảnh hưởng từ văn chương, văn hóa   của các nước vùng châu Âu ( Pháp ,Anh ) châu Mỹ ( Hoa kỳ ), mang không khí hiện đại hòa nhập với các yếu tố truyền thống ( ca dao, dân ca, thơ Đường và Đường luật )
  Theo tác giả Hoài Thanh ( Thi nhân Việt Nam) ,nét độc đáo của  Thơ Mới tập trung ở nhân vật trữ tình và  giòng cảm xúc: cái tôi riêng  tư vui buồn, hạnh phúc, đau khổ, yêu quê hương… của mỗi một nhà thơ. Có thể hiểu “ cái tôi” là con người nhà thơ  hay chính nhân vật trữ tình  luôn luôn xuất hiện trong mọi tác phẩm của thi sĩ đó . Theo Hoài Thanh,   tính mỗi nhà thơ bao lâu nay bị kiềm chế , bây giờ bỗng được giải phóng ,làm giàu cho thơ ca . Đó là một hồn thơ mở rộng, muốn lên tiên như Thế Lữ, hồn thơ mơ màng yêu đương của Lưu Trọng Lư, hồn  thơ hùng tráng của Huy Thông, hồn thơ trong sáng của Nguyễn Nhược Pháp, buồn ảo não của Huy Cận,kì dị điên cuồng của Hàn mặc Tử  Chế Lan Viên,thiết tha, rạo rực, đắm say Xuân Diệu, hồn thơ quê mùa ở Nguyễn Bính
3. Những luồng ảnh hưởng trong  thơ mới :
 a   . Ảnh hưởng phương Tây.
- thơ  Thế  Lữ  chịu ảnh hưởng các nhà thơ lãng mạn Pháp (1933-34)
-thơ Huy  Thông , Chế Lan Viên mang không khí mơ màng thơ Shakespear(Anh),  chất giọng hùng tráng của thơ Victor Hugo(Pháp)(1934)
- thơ Xuân Diệu  thường diễn tả lòng ham sống  bồng bột của  De Noailles và Gide, nghệ thuật tinh  vi của Baudelaire (1936)
- thơ Huy Cận  chịu nhiều ảnh hưởng từ Verlaine
- thơ Nguyễn Nhược Pháp chịu ảnh hưởng từ  Alfred  de Musset
- rất nhiều nhà  thơ  từng bị ám ảnh bởi thơ của Baudelaire : Vũ Hoàng  Chương
b     Ảnh hưởng thơ Đường và thơ ca phương tây :
-Thơ Hàn Mạc Tử  đi từ chất thâm trầm của thơ Đường (Trung Quốc ) đến   lãng mạn của Baudelaire và Edga Poe , nhà văn Mỹ .  Nhà thơ có đức tin công giáo đã   chọn nhiều màu sắc Thánh Kinh của Thiên  Chúa giáo vào trong khá nhiều tác phẩm của mình .
- Thơ Chế Lan Viên  cũng chịu ảnh hưởng ba tác giả này, nhưng con đường đón nhận đi ngược lại với Hàn Mạc Tử
  C     Ảnh hưởng thơ Đường: Thâm Tâm,  Huy Cận, Đông Hồ, Quách Tấn , Lưu Trọng Lư ,
 d      Ảnh hưởng ca dao, truyện Kiều :  Tản Đà ,Nguyễn Đình Thư, Nguyễn Bính , Huy Cận
2.       
II. Các thể thơ thường  gặp trong  thơ mới :
1  thơ Đường  : Do Quách Tấn đề cao, nhưng không phát triển bởi phép đối chữ, đối câu  và nội dung chặt chẽ của thể thơ này.
 2 thơ năm chữ, bảy chữ ,: rất thịnh( không mang không khí  thơ cổ phong, vì cổ phong đã  chuyển dần sang thơ Đường luật) Các thể thơ này có hình thức như thơ do luật Đường nới giãn ra , nên giàu nhạc điệu hơn, độc đáo hơn,vì dùng nhiều vần bằng hơn trắc . Số lượng câu trong thơ bảy chữ có thể linh hoạt,(vần ôm) có khi gói trong  ba đến  năm khổ, mỗi khổ bốn câu, dưới dạng thất ngôn tứ tuyệt .
3  thơ lục bát được trân trọng,  bởi nhiều nhà thơ rất yêu quí ca dao, truyện Kiều. Nhưng thể song  thất lục bát hầu như ít được chú ý
4  ca trù biến thành thơ tám chữ. Thể   thơ này  ra đời trước năm 1936 ( trước khi ông Thao Thao đề xướng ) Vần liên chân được tận dụng, nhưng yêu vận hầu như biến mất .
4  thơ bốn chữ  trở thành một thể thơ   nghiêm  chỉnh, dù trước đây chỉ được dùng trong các bài vè .
 5 thơ lục ngôn thỉnh thoảng vẫn thấy xuất hiện .
6 thơ từ khúc,  thơ Đường  ( Do Quách Tấn đề cao) không phát triển bởi phép đối chữ, đối câu  và nội dung chặt chẽ của thể thơ này, dần biến mất với thơ tự do (chỉ là một phần nhỏ  trong thơ mới )


 III  VÀI NÉT VỀ THỂ THƠ BẢY CHỮ
 1.NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ  HÌNH THỨC- NGHỆ THUẬT:

 a  Số  chữ trong câu: thơ bảy chữ là thơ mỗi câu có bảy chữ . Thể thơ này có thể được hình thành từ hai  dạng thơ : thơ thất ngôn ( từ thơ Đường luật ) và thơ sonnet  dạng  bảy chữ của phương tây. Thơ song thất lục bát cũng     câu  baỷ chữ , nhưng lối ngắt nhịp (3/2/2 ) không phù hợp với cách ngắt của thơ Đường luật ( 2/2/3)
b  . Số câu  có thể là bốn ( như dạng tứ tuyệt của thơ Đường luật ) gói trong một khổ ( doạn) , hay nhiều khổ; cũng có khi nhà thơ xây dựng tác phẩm với đoạn nhiều  hơn bốn ( Tây Tiến của Quang Dũng )
  c   Cách gieo vần: vần  có nhiều dạng : vần ba tiếng bằng, hay còn gọi là vần ôm ( các câu 1,2 và 4 có chung một vần ) vần chéo (   vần từng cặp ở câu 1-3 hay  2-4 , hoặc chỉ có vần cặp 2-4 )  vần liên (  từng cặp 2-3, 4-5 ) . Dạng vần liên ở những bài thơ  không phân định khổ  bốn câu.
  d . Luật bằng trắc trong thơ  bảy chữ là một sự phá cách độc đáo . Nhà  thơ có thể chọn nhiều từ thanh bằng  hoặc trắc trong một câu thơ, nhằm diễn tả một nội dung, một mục đích nào đó ( Tây Tiến của Quang Dũng )
eNgôn ngữ trong thơ bảy chữ , đặc biệt với các tác giả thuộc phong trào thơ mới, rất dồi dào hình ảnh và biện pháp tu từ, đặc biệt nhân hóa. Tính từ miêu tả ( cảnh vật, tâm trạng ) cũng được vận dụng rất linh hoạt
-          f Nhân vật trữ tình : chính là cái tôi  trữ tình của mỗi nhà thơ ( thơ mới ) là   tấm lòng nhà thơ hướng về đất nước, nhân dân, cách mạng ( thơ hiện đại)
2         NỘI DUNG TƯ TƯỞNG :
aBộc lộ cái tôi nhà thơ:  tình yêu quê hương thầm kín ( Huy Cận)
b Nỗi buồn cô đơn   
cCảm hứng về thiên nhiên và tình yêu

           
 IV . THƠ TÁM CHỮ
1.      Nguồn gốc : . Thơ tám chữ là thể thơ mỗi câu thơ có tám chữ.   Theo nhà nghiên cứu thơ mới Hoài Thanh , thể thơ này có nguồn gốc từ  ca trù .  Ca trù là dạng nghệ thuật biểu diễn dùng nhiều thể văn chương như thể phú, thể truyện, thể ngâm, nhưng thể văn chương phổ biến nhất là hát nói. Ca trù (  hay còn gọi là hát cô đầu, hát ả đào, hát nhà tơ, hát nhà trò- thể thơ đậm màu sắc dân tộc) là một loại hình diễn xướng bằng âm giai rất thịnh hành tại khu vực Bắc Bộ  Bắc Trung Bộ Việt Nam, rất thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc  trí thức yêu thích. Ca trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca  âm nhạc.
Một số nhà nghiên cứu còn  cho rằng  thể thơ này   từng chịu ảnh   hưởng thể  sonnet ( thi khúc ) của phương Tây,  số từ trong câu dao động  từ bảy và tám.
 Good friend, for Jesus' sake forbeare (Tránh xa nấm mồ của ta)
 Blessed be the man that spares these stones( Người nào gìn giữ và không động đến mộ ta sẽ được phước lành.)
, (Shakespear)
   Oh! combien de marins, combien de capitaines(bao nhiêu thủy thủ, bao nhiêu thuyền trưởng)
   Combien ont disparu, dure et triste fortune! (Có bao nhiêu đã biến mất, khó khăn và buồn may mắn!)
  (Victor Hugo và Đêm đại  dương..   )
 I'm going out to clean the pasture spring(Tôi ra đi dọn đồng cỏ mùa xuân)Trên
;I'll only stop to rake the leaves away(Trên đồng cỏ tôi sẽ cào lá rụng)
 (The Pasture- nhà thơ Mỹ Robert  Frost)
Thể   thơ  tám chữ  được cách nhà thơ mới  sáng tạo  trước năm 1936 ( trước khi ông Thao Thao đề xướng ) Vần liên chân được tận dụng, nhưng yêu vận (vần  giữa câu ) hầu như biến mất .
 2.  Đặc điểm : Ở đây, chúng ta chú ý  đặc điểm: thơ tám chữ  được hình thành  từ ca trù , gồm  bốn  thể văn chương như thể phú, thể truyện, thể ngâm, hát nói mà tạo nên .
-  Phú theo nghĩa đen chủ yếu là thể văn tả cảnh. và liên kết với nội tâm để tả tình.  Số chữ từng câu trong bài phú có thể là bốn, năm  hoặc bảy Phú lưu thủy là dạng  phú không hạn chế số chữ, có khi lên mốc tám , gần như văn xuôi.
- Truyện gắn liền với động tác kể : ai?  Làm việc gì ? Ở đâu ? Lúc nào ?  truyện  gồm có nhân vật, có tình tiết .
-Ngâm khúc gắn liền với thể  thơ song thất lục bát. Câu song thất vần trắc xen câu lục bát vần bằng; có vần chân và vần lưng khiến cho âm điệu xoắn xuýt, thích hợp với nỗi lòng  ai oán, thương xót sầu muộn , nỗi buồn thăm thẳm da diết . Ngâm khúc thường dùng nhiều tiểu đối và  từ Hán Việt cho câu thơ tha thiết trang trọng.
- Hát nói.  là một làn điệu của hát ả đào( Hát ả đào gồm  nhiều làn điệu có hình thức  văn học và âm nhạc hoàn chỉnh nhất ).  Xét về mặt văn  học, hát nói được xem là một thể thơ cách luật , nội dung ngợi ca .Số từ trong câu thường là  tám .
-   Thơ tám  chữ còn ảnh hưởng phép tắc tu từ, thanh vận của thơ hiện đại phương Tây
3.      Định  nghĩa : ta có thể hiểu thơ tám chữ và là hướng để đọc thể thơ này :
-           Mượn câu bát trong thơ song thất lục bát , trong phú và trong hát nói , nhưng chỉ chọn vần chân .( Thể  thơ song thất lục bát có vần lưng) , mượn nhịp điệu (  cao thấp ) tiết tấu ( nhanh chậm )  luôn thay đổi và phóng túng  của hát nói
-           Mượn nội dung kể truyện  (truyện) tả  cảnh ,tả tình ( phú ), mượn nỗi lòng  ai oán, , nỗi buồn thăm thẳm da diết ( ngâm khúc ), hoặc    nhiều cung bậc cảm xúc  ngợi ca  của phú và hát nói.
-          Có sự phối hợp nhuần nhuyễn đạt đến đỉnh cao của thi ca  âm nhạc: truyền thống và hiện đại
 V .. Các nhà thơ và tác phẩm nổi tiếng:
1 Thơ mới: Có rất nhiều bài  thể thơ tám chữ : Xuân Diệu (Vội vàng,Tương tư chiều, Lời kỹ nữ … ) Huy Cận (Đi giữa đường thơm, Nhạc sầu ..)Tế Hanh ( Quê hương, Ao ước ) Chế Lan Viên (Đêm tàn, Trên đường về )Đoàn Văn Cừ ( Chợ tết )Anh Thơ (Chiều xuân) Hàn Mặc Tử(Trường tương tư, Đêm xuân cầu nguyện, Ra đời… )
2.      Thơ hiện đại : Tố Hữu ( Mùa thu mới , Người con gái Việt Nam) Trương Nam Hương ( Cảm nhận chiều Dalat, Xa lắc mùa thu )Lê Minh Quốc (Nhớ  Đông Ky Sôt)Phan  thị Thanh  Nhàn (Hà Nội mùa thu , Rồi có thể)


KẾT LUẬN:   Thơ Mới đã đặt nền tảng cho các thể  thơ  năm chữ,bảy chữ,tám chữ  của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Yếu tố dân tộc (ca dao dân ca,) được hòa hợp với các giá trị về hình  thức ,nội dung của  thơ Đường, Đường Luật, thi ca châuÂu, châu Mỹ … đã phong phú hóa những thể thơ  thông dụng, gần gũi hiện nay, trở thành một bộ phận   trong đời sống tinh thần của mọi người Việt Nam.

 (Dalat 3.2017 )
               


No comments:

Post a Comment