THỂ THƠ
ĐƯỜNG LUẬT- THẤT NGÔN TỨ TUYỆT- CHỮ HÁN
NAM QUỐC SƠN HÀ
( Lý Thường
Kiệt )
A. TÌM HIỂU CHUNG
I.
TÁC PHẨM .
Bản ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư như
sau:
南國山河南帝居,
截然分定在天書。
如何逆虜來侵犯,
汝等行看取敗虚。
Phiên
âm Hán-Việt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
II.
DỊCH NGHĨA :
1. Từ ngữ:
a. Quốc :
một nước có chủ quyền, có vị lãnh
đạo, có nhân dân, có lãnh thổ . Nam :một phương đối lập với phương Bắc,
có ý nói đến Việt Nam chúng ta ngày ấy Sơn hà : núi lớn, sông to, cũng
chỉ quê hương, đất nước của một
con người Đế : vua, bậc thánh thần ở trần gian là vị được tôn kính nhất. Vua
thường được gọi là “ thiên tử” (
con của trời ) .Cư: giữ lấy, ngồi, chứa trữ
* Nam quốc sơn hà Nam đế cư: vua Nam, bậc thánh thần ở trần gian được tôn kính nhất có toàn quyền làm chủ lãnh thổ,( có núi lớn sông to,do cha
ông để lại) cai quản nhân dân, như vua
phương Bắc vậy.
b Tiệt nhiên ( danh từ ) đạo lý chính đáng , không ai có quyền và không thể thay đổi hay
di chuyển được – một chân lý bền vững .Phận định ( định phận –danh từ )
cái vị trí, chức phận theo năng
lực đã được sắp đặt nhất định, rạch ròi,
không thể xáo trộn được- một qui luật
bắt buộc
Tại : có ở trong Thiên thư : sách trời . Trời theo quan niệm của người phương Đông là Đấng
sáng tạo và cai quản cả vũ trụ, vạn
vật, có quyền năng siêu nhiên và vô biên . Sách là nơi ghi chép những
điều được nói ra, nghĩ đến. Sách
trời có thể hiểu là chân lý, là qui luật
đã được trời định sẵn từ lâu, không ai
được phép xem nhẹ- hoặc là bị trừng phạt nếu vi phạm
* Tiệt nhiên phận định tại thiên thư: một chân lý bền vững, một qui luật bắt buộc này đã được trời định sẵn từ lâu,có ghi thành văn
bản, không
ai được phép xem nhẹ- hoặc là bị trừng
phạt nếu vi phạm
c. Như hà : tại sao, làm sao, cớ sao.Nghịch lỗ : ( nghịch: bọn phản ngược,lỗ ; lũ tôi mọi ): kẻ tham lam, độc
ác, quân giặc hung tàn Lai : tìm đến . Xâm phạm
( xâm :tiến lên mà lấn, giành
giật ; phạm:lấn lướt )lấn lướt, giành chiếm quyền lợi của người khác .
* Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm: Bất cứ kẻ tham lam, độc ác, quân giặc hung tàn nào lấn tới, giành chiếm quyền lợi của người khác .
d Nhữ đẳng ( nhữ : cùng giống nhau, đẳng : bè phái, phe,chúng mày) cả
bè phái một thứ chúng mày # nghịch lỗ .Hành : trải qua. Khan: xem thấy .Thủ : đưa tay mà nhận lấy .Bại : thua, đổ bể
Hư : không có, không vào đâu
cả
-
* Nhữ đẳng hành khan thủ bại
hư: cả
bè phái một thứ chúng mày đều phải nếm trải mùi thất bại thảm hại
khôn cùng.
2.
Hoàn cảnh ra đời : Nam
quốc sơn hà (南國山河) là một bài thơ Hán văn thất
ngôn tứ tuyệt không rõ tác giả. Đây là
bài thơ nổi tiếng trong lịch
sử Việt Nam, được coi là bản tuyên
ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam, khẳng định chủ quyền của
nhà cầm quyền Đại Việt trên các vùng đất của mình. Bài thơ được cho là bài thơ thần do thần đọc giúp Lê Hoàn chống quân Tống năm 981 và
Lý Thường Kiệt chống quân Tống năm 1077.
B. ĐỌC HIỂU :
1.
Mối liên hệ giữa nhan đề và hai câu đầu
:Tác giả nêu lên vấn đề gì ?
Bài
thơ có nhan đề là “ Thơ Thần” . Bản thân
danh từ chung “ thần” gắn
liền với yếu tố thần linh, thần diệu, là kẻ có sức mạnh phi thường, có khả năng biến hóa vô song, có quyền năng bất tử, luôn được con người thờ kính, trọng vọng. Thơ thần có nghĩa là
bài thơ của thần ban cho muôn dân, thể hiện quyền lực vô biên của đấng tối cao, cai quản muôn dân.
Câu
thơ thứ hai “Tiệt
nhiên phận định tại thiên thư” (Chân lý và qui luật này đã
có trong sách trời ) Trời theo quan niệm của người phương Đông là Đấng
sáng tạo và cai quản cả vũ trụ, vạn
vật, có quyền năng siêu nhiên và vô biên . Sách là nơi ghi chép những
điều được nói ra, nghĩ đến. Sách
trời có thể hiểu là chân lý, là qui luật
đã được trời định sẵn từ lâu, không ai
được phép xem nhẹ- hoặc là bị trừng phạt nếu vi phạm. Đây là câu thơ mang linh hồn của
toàn bài thơ, cặp danh từ ghép (Tiệt nhiên phận định) là nhãn tự, từ chìa khóa mở ra cánh
cửa để thâm nhập bài thơ
Vậy “tiệt nhiên phận định”
(Chân lý và qui luật này) là gì ? Hãy
ngược trở lại câu thơ thứ nhất. Đó là “Nam
quốc sơn hà Nam đế cư”( Vua Nam làm chủ
cõi bờ phương Nam , bao gồm chủ quyền, lãnh thổ có núi lớn sông to,và nhân dân)
Ở đây, tác giả có dụng ý
khi dùng những từ đồng nghĩa . Bản thân
danh từ riêng Nam đã chỉ toàn bộ nước Nam ( có vua, có dân, có
đất đai sông núi ) Hai từ Nam
đóng vai trò tính từ như càng tô đậm vị trí “ nước Nam, vua Nam” đối lập với “
nước Bắc, vua Bắc” của giặc xâm lăng nhà Tống, khẳng định tư tưởng “ Xưng nền
văn hiến đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” . Cụ thể hơn, nếu phương Bắc có Hán Đường Tống
Nguyên thì nước Nam có những triều vua
Nam là “ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập”. Quốc( nước )
bao hàm ba yếu tố của một nước :
có vua lãnh đạo của một nhà nước đầy đủ chủ quyền, có địa phận rõ ràng có nhân dân. Đế chỉ vua .
Đế : vua, bậc thánh thần ở trần gian là vị được tôn kính nhất, làm chủ
lãnh thổ, nhân dân . Để nhấn mạnh ý nghĩa từ “quốc và đế”, tác giả còn bổ dung cụm từ “sơn hà”, chỉ núi cao,
sông rộng,cũng có nghĩa là đất nước, là quốc là đế .Tất cả dồn lại trong hai
câu khẳng định chắc nịch “Nam quốc sơn hà
Nam đế cư, Tiệt nhiên phận định tại
thiên thư” . Chỉ hai câu, mười bốn từ, giọng điệu hùng hồn,
ý tưởng nhắc đi nhắc lại “nước Nam của
dân Nam , đó là điều không ai có quyền chối cãi” Nội dung ấy chính là tinh thần “ độc lập” ( đứng
một mình ) của mọi bản tuyên ngôn của mọi quốc gia, mọi dân tộc trên thế giới
Nước Nam của dân Nam, cũng chính
là quyền lợi , đã từng được sắp đặt
cụ thể , rạch ròi, minh bạch, chắc chắn,như một chân lý , không thể nào
thay đổi được.
2 Hai câu cuối : Vua và dân Nam sẽ làm gì trước vấn đề đó ?
Tác giả gọi giặc xâm lược là “nghịch lỗ”: ( nghịch: bọn
phản ngược,lỗ ; lũ tôi mọi ): kẻ tham lam, độc ác, quân giặc hung tàn .
Sau đó,
nhà thơ gọi tiếp “nhữ đẳng” ( nhữ : cùng
giống nhau, đẳng : bè phái, phe,chúng mày) cả bè phái một thứ chúng
mày , cũng có nghĩa là nghịch lỗ , cho thấy bọn “ nghịch” khá đông,
kết bè lập phái .. Ban đầu chúng “ lai xâm phạm” thì kết thúc là “Hành khan thủ
bại hư ( trải qua, xem thấy, đưa tay mà
nhận lấy, đổ bể , không vào đâu cả)
Năm hành động đầy sai
trái của giặc, bắt đầu là “ lai xâm
phạm” ( tìm đến , xâm :tiến lên mà lấn,
giành giật ; phạm:lấn lướt), sau đó
“hành khan thủ” (trải qua, xem thấy, đưa tay mà nhận lấy) tạo
nên hai thắng lợi (bại hư - thất bại thảm hại . Tất
cả chỉ là bại hư) cho quân dân ta . Giặc
bước chân tràn qua lãnh thổ chúng
ta ư, thì mắt thấy ngay, tay nhận ngay mọi thất bại
thảm hại .
Thán từ “ như hà”( Như hà : tại sao, làm sao, cớ sao) là giả
thiết, cũng là lời hăm dọa, là lời thề của dân ta .
Cả câu thơ cuối này có sự liên kết chặt chẽ với những hình ảnh “ thần”( đấng siêu nhiên nhiều
sức mạnh vô biên”, tiệt nhiên”( đạo lý trời định rất chính đáng) “ phận định” ( quyền lợi được phân chia cụ thể ) thì kẻ nào có tham vọng muốn chiếm giữ,sẽ chắc
chắn nhận về “ bại hư” , sự đổ bể, con số không , mà thôi.
Giọng văn khẳng định ở những động từ mạnh
( cư, tại ) và những danh từ đanh thép ấn tượng ( tiệt nhiên, định phận, thiên thư ) để khẳng định chân lý; những từ cùng trường
nghĩa ( quốc,sơn hà, đế ,Nam ) càng tô đậm
vị trí , phạm vi của đất nước ta .
Ngày nay, để bảo vệ
những chân lý này, thế giới có tuyên ngôn, công ước, hiệp định được ghi chép thành văn bản, là
những bia đá bất tử , truyền lại đời đời
cho con cháu.
Cả bài thơ có thể dịch nghĩa :
-Vua Nam
làm chủ cõi bờ phương Nam , bao gồm chủ
quyền, lãnh thổ có núi lớn sông to,và
nhân dân,
Chân lý và qui luật này
đã có
trong sách trời
Tại sao bọn giặc lại qua xâm lấn ?
Bè lũ chúng bay có
bước qua, thì trông thấy và nhận lấy mọi điều thảm hại thôi .
Có người đã tạm dịch bài thơ như sau:
Vua Nam có cõi bờ , đất, người
Chân lý, quy luật , trong sách trời
Nếu như bọn nghịch đến xâm
lược?
Thấy và nhận ngay mọi thảm tai!
Câu hỏi :
1.
Bài thơ thuộc thể thơ gì ? Hướng
đọc hiểu như thế nào ?
2.
Bạn nghĩ gì về hai danh
từ ghép “ tiệt nhiên” và
“ phận định”
3.
Câu cuối liên kết với câc
từ “ thần” ( nhan đề ) và câu hai như thế nào ?
4.
Bài thơ được ca ngợi là “ Bản tuyên ngôn đầu tiên
của nước ta” . Tại sao ?
( Dalat 25.7.2013 )
No comments:
Post a Comment