Monday, August 26, 2019

BÀI 5 CA DAO VIỆT NAM



                                                     
I.                   NHỮNG ĐIỀU LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TÌM HIỂU TÁC PHẨM
1.     Định nghĩa :
 Ca dao là một từ Hán Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc . Ca dao  thơ ca dân gian Việt Nam được  người lao động sáng tác và phổ biến dưới dạng  truyền miệng qua  những câu hát không theo một làn điệu nhất định nào cả , chủ yếu  thuộc  thể thơ lục bát , do thể thơ này dễ đặt lời, dễ ghi nhớ .
2.      Đặc điểm về nội dung, nghệ thuật:
·         . Về mặt nội dung, ca dao diễn tả vẻ đẹp tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân trong mối quan hệ  lứa đôi, gia đình, quê hương .Về nghệ thuật, khác với thơ ca của nền văn học viết, ca dao có lời ngắn , phần lớn thuộc thể thơ lục bát hay lục bát biến thể ; ngôn ngữ   gần gũi với lời nói hằng ngày , giàu hình ảnh ẩn dụ, so sánh, nhân hóa , có một số mô típ ( mẫu đề ) mang đậm màu sắc dân gian . Để sáng tác một bài ca dao , người lao động thường  tìm nguồn cảm xúc theo ba hướng ,đó là phú ( miêu tả ) tỉ ( so sánh) và hứng ( cảm xúc ).
·           
·          II. ĐỌC HIỂU :
·          Trong chương trình của sách giáo khoa, ca dao có hai mảng : ca dao than thân, yêu thương, tình nghĩa , và mảng ca dao  hài hước .
·          1.  Những câu hát than thân:
·           a .Cô gái không có quyền quyết định hôn nhân của mình
·           Chùm ca dao than thân có hai bài  đầu tiên . Ở đây, ta thấy tác giả dân gian sử dụng một mẫu đề Thân em . Thân ở đây không chỉ dừng lại ở ý nghĩa cơ thể , thân xác , mà còn rộng hơn mặt xã hội ,  cuộc đời, quan hệ nam nữ, hôn nhân . Người xưa khi sinh ra một bé gái thường không  bằng lòng hơn khi đón một hài nhi là nam . Bởi từ  bé, theo quan niệm nho giáo, bé gái đã chịu  thiệt thòi ( con gái là con người ta ,  nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô ..), nên ít được học hành , tài sản cha mẹ để lại cũng phải nhận phần thấp hơn , nhưng lại  phải nhận lấy nhiều trách nhiệm ( trai thời trung hiếu  làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình ) , phạm vi giao tiếp rất hạn hẹp ( ra ngoài dệt cửi, vào trong thêu thùa, hoặc tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử ) . Để lý giải cho những thiệt thòi trên đây, người phụ nữ dùng một từ để an ủi , đó là số phận , là đời người an bài, là quy luật .
·            Bài ca dao thứ nhất nói rõ   điều này.  Lụa đào là loại vải dệt từ tằm loại tốt, bền đẹp , càng đẹp hơn khi được nhuộm đỏ ( điều) công dụng lớn , ấm đông , mát hè , tất nhiên giá tiền mua không nhỏ, nếu đem rao bán giữa chợ . . Với lối ẩn dụ  ở hướng tỉ , cô gái xuất thân  từ một gia đình danh giá, bản thân lại xinh đẹp,có đủ công ( siêng năng ) dung ( có chút nhan sắc) ngôn ( nói năng ý tứ ) hạnh ( có đức độ ), nhưng do  cuộc đời đã an bài , cô chỉ là một người phụ nữ .Lễ giáo phong kiến không cho phép cô  tự  quyết định hôn nhân của mình . Cô không được  phép cưới người cô yêu, mà tất cả đều do cha mẹ , họ hàng quyết định.Do vậy, cô buông xuôi, phó mặc cho số phận (phất  phơ ) Xã hội và cuộc   đời hay số phận dẫn cô đến với một người chồng tốt,hay xấu ( tay ai ) cô hoàn toàn không có quyền định đoạt .May nhờ, rủi chịu , ngậm ngùi như bà  Tú của nhà thơ Trần Tế Xương : Một duyên hai nợ, âu đành phận .
·          b .Hôn nhân mang tính môn đăng hộ đối
 Bài cao dao thứ hai   mang một nội dung ngược lại .Tác giả vận dụng lối phú ( miêu tả ) rồi đến  hứng ( bộc lộ cảm xúc ) . Tác giả đã gặp những củ ấu trong đời mình . Đây là một loại thực vật thường mọc ở vùng nước đọng không quá 5 m sâu. Tuy gọi là "củ" đây đúng ra là "quả" vì nó phát triển dưới nước đến khi già thì rụng và vùi xuống bùn nên được gọi là "củ". Củ ấu có 49% tinh bột và 10.3% đạm nên được dùng làm nguồn lương thực cho con người cùng súc vật ,luộc chín  hoặc chế biến thành tinh bột trộn với mật hay đường làm bánh. Có thể dùng làm thuốc chữa nhức đầu, choáng váng và cảm sốt, chữa loét dạ dày, loét cổ tử cung. Toàn thân cây chữa trẻ con sài đầu, giải độc rượu, làm cho sáng mắt. Ở Việt Nam ghi nhận có ít nhất ba loài: ấu trụi (ấu có hai sừng tù, trồng ở Hải Phòng), ấu gai (ấu có hai sừng nhọn, trồng ở Thái Bình), và ấu sừng trâu (trồng ở Phú Thọ)
. Như vậy , khác với lụa, củ ấu  phải chấp nhận một hình thức không đẹp đẽ , méo mó, lồi lõm, lại đen đúa do lớn lên từ bùn sình . Đây cũng có thể  bộc bạch một khía cạnh dung nhan cô gái .  Còn thêm một  yếu tố nữa, đó là thành phần xuất thân. Dù chàng trai có  động viên cô “chẳng tham nhà ngói ba tòa, tham vì một nỗi mẹ cha em hiền”, nhưng giá như của hồi môn nhà nàng  khấm khá một chút . Cô gái biết vậy mới than thở “thân em”. Nhưng cô rất  tự tin, như những củ ấu kia . Dù thiếu dung nhan,gia thế thấp kém, nhưng cô  khẳng định “ ruột trong thì trắng, lại ngọt bùi”, nghĩa là cô có đủ công, ngôn, hạnh . Xét về nghĩa miêu tả ( nghĩa đen) củ ấu vừa có thể là  một loại  dược liệu, lại là thực phẩm cho con người, giàu tinh bột lẫn đạm, lại là nguồn thức ăn quý giá cho gia súc. Với lối hứng ,về nghĩa bóng,  cô gái muốn phân bua rằng    thực sự đem lại hạnh phúc cho những ai có tấm lòng biết chọn gỗ hơn nước sơn, biết cái nết đánh chết cái đẹp .
   c. Tình yêu gặp nhiều ngăn trở
Hai bài ba bốn thuộc chùm ca dao than thân. Bài  đầu  chọn mẫu đề  “ trèo lên cây khế” . Cụm từ “trèo lên” thường thấy xuất hiện  nhiều trong ca dao xưa ( trèo lên quán   dốc, trèo   lên cây bưởi , con mèo trèo cây cau …)  như để chỉ một tư thế biệt lập, gây sự chú ý cho đối tượng, chẳng khác nào cụm “ chiềng làng thượng hạ, náo lặng mà nghe” khi   chàng Mõ hay anh Lềnh  vác loa đi khắp làng   thông tin một sự kiện nào đó . Còn những vị trí “quán   dốc, cây bưởi , cây cau” vốn gắn bó  với cuộc sống hằng ngày của người lao động . Cây khế còn mang một khía cạnh ẩn dụ vị giác , sự chua xót trong đời người . Đây là một trạng thái tâm lý đau đớn tận cùng . Nửa ngày  là một khoảng thời gian dài . Khi chê trách người đi làm đồng quá muộn, người nông dân thường dùng cụm từ “nửa buổi rồi mới thấy mặt”. Nhân vật mang một nỗi đau dằng dặc . Vì sao ? Chuyện yêu đương hai người gặp phải sự ngăn trở, như   sao hôm với sao mai, như mặt trời với mặt trăng .
·         Vào buổi chiều tà khi chạng vạng nhìn về phía Tây, ai cũng có thể trông thấy một ngôi sao mọc rất sớm, rất sáng gọi là sao Hôm. Vào lúc tảng sáng khi gần như tất cả các vì sao khác đã tắt, chúng ta cũng nhìn thấy một ngôi sao rất sáng ở phía Đông vẫn còn ở trên trời gọi là sao Mai. Sự thật là sao Hôm và sao Mai chỉ là một ngôi sao duy nhất, sao Kim (được gọi là Venus – thần sắc đẹp và tình yêu) . Trong suy nghĩ của người xưa, hai ngôi sao này khác nhau và có sự cách trở lớn về không thời gian : kẻ bên đông, người bên tây. “Sao hôm sao mai” với ,ý nghĩa này đã được sử dụng để so sánh với hai con người mà trong hoàn cảnh nào đó phải xa biền biệt nhau. Thành ngữ có nghĩa gần với thành ngữ này là “mặt trăng, mặt trời” cũng chỉ hai đối tượng gần như không bao giờ xuất hiện cùng với nhau trong điều kiện bình thường.
Bốn câu của nửa bài ca dao cho thấy vì sao mà nhân vật chính đau đớn như vậy .Tuy nhiên, trọng tâm tình cảm  dồn vào hai câu cuối . Vẫn lối hứng ( tức cảnh sinh tình ) và ẩn dụ , lấy những hiện tượng thiên nhiên  kỳ vĩ mà gần gũi, nhân vật tha thiết nhắc nhở và khẳng định : ta như sao Vượt chờ trăng . Nhớ là tâm trạng luôn nghĩ đến, có pha chút chiếm giữ. Còn chờ nghĩa là nỗi nhớ ấy không thay đổi . Trăng hạ tuần mọc lúc nửa đêm, cũng là thời điểm sao Hôm vượt lên đến đỉnh của bàu trời . Đấy là một tình yêu  kiên định, không bao giờ tàn phai dù phải đối đầu với nghịch cảnh .
d. Nỗi bồn chồn khắc khoải , đau buồn trong tình yêu
·         Bài ca dao với thể thơ lục bát biến thể có ba hình ảnh  xuyên suốt bài thơ : chiếc khăn, đôi mắt và ngọn đèn . Chiếc khăn được nhân hóa , hiện lên một bóng người ngồi xuống ( khăn rơi xuống đất ) đứng lên ( khăn vắt lên vai ) và khóc (khăn chùi nước mắt ) .Đó là thái độ bồn chồn , đứng ngồi không yên , pha lẫn lo buồn , đau đớn đến độ rơi lệ .Đoạn thơ có nhiều tiểu xảo nghệ thuật độc đáo . Ba lần luyến láy câu thơ như một câu hỏi tu từ nhay đi nhay lại trong tim nhân vật chính : khăn thương nhớ ai ? Nhớ là tâm trạng luôn nghĩ đến, có pha chút chiếm giữ. Thương thì mức độ ấy như tăng lên gấp đôi.  Ba điệp từ “ nhớ thương” đã nâng nỗi nghĩ đến, muốn chiếm giữ gấp  mười hai lần . Thật khủng khiếp.  Lối  bày tỏ diễn dịch ( nhớ thương  chồng chất cho nên lòng  bồn chồn , đau khổ . Bốn câu tiếp  hướng về ngọn đèn và đôi mắt . Đèn  thường là hình ảnh ẩn dụ chỉ    hành động thức trắng đêm , còn mắt cũng là một ẩn dụ chỉ tâm trạng thao thức,  trằn trọc . Bốn câu  này bổ sung nghĩa cho  sau câu đầu, mô tả nỗi bồn chồn khắc khoải , đau buồn suốt đêm, bởi  da diết nhơ thương một bóng hình. Vì sao ? Lại là sự lập luận mới, không phải diễn dịch mà quy nạp . Tất cả bởi vì “lo phiền chuyện không  yên bề gia thất”. Những lo phiền, lo …  nỗi lo buồn chất cao như núi , vì chuyện hôn nhân  của họ .  Nhân vật bộc lộ rất kín đáo ( một nỗi không yên một bề …) một vế sáu từ , phải ghép , lại nói đảo, nói lấp lửng , nghĩa là chuyện rất tế nhị, nhưng không thể nào không nói ra được .Yên  ở đây có thể hiểu là an, là ổn định .Việt Nam có thành ngữ “yên bề gia thất” ( ổn định chuyện nhà cửa, vợ chồng ) Tất cả là bởi tình yêu .
·          2. Những câu hát tình nghĩa :
·          a. Tình yêu táo bạo,mãnh liệt,thủy chung
·          Bài ca dao  5,6 thuộc chùm ca dao tình nghĩa .Lối tỉ khá chân tình mà táo bạo . Bề ngang sông ,nếu sông Đà trên thượng nguồn ,quãng hẹp nhất “nai hổ vọt qua, ném nhẹ đồng xu qua bờ bên kia” cũng có thể  bằng một mét, gồm mười gang . Còn sông Hồng quãng ngang Hà Nội có bề ngang là 778 mét . Các con sông khác có thể hẹp hơn . Cô gái ao ước như thế ( tức cảnh sinh tình mà ), hoặc miêu tả ( phú ) cũng được, chỉ bởi  dải yếm ( sợi dây bằng vải nối hai cạnh chiếc yếm, cột ngang lưng )  dài độ vài gang tay mà thôi . Tình yêu mãnh liệt ( mong   sông hẹp lại ) nóng bỏng ( lấy giải yếm làm cầu) Nhưng tất cả là tình và nghĩa . Cô không bồng bột mà có cân nhắc ,tính toán . Hai ngươì ngăn cách bởi   con sông,chỉ có thế thôi , đó là hiện tại , là tình .Tương lai của họ còn dài biết bao ở phía trước , nên cô chấp nhận   hy sinh một chút, lấy dải yếm làm cầu, để nối hai bờ , để trông cậy cái nghĩa mà cả hai vun đắp .Dải yếm còn mang ý nghĩa thắt chặt mối quan hệ  hai bên thêm bền vững mãi mãi . Một bài ca dao hay
·         b  Tình yêu mãnh liệt,thủy chung
·          Bài  cuối cùng lại thấm thía ở một khía cạnh tình nghĩa khác . Ở đây tác giả dùng lối  thơ song thất lục bát biến thể. Rõ ràng với lối   tỉ ( so sánh  đặc điểm một hiện tượng tự nhiên với tình nghĩa ) , lấy muối gừng để chỉ lòng người . Muối luôn đi với  gừng,mặn đi với cay . hàm ý thủy chung ,gắn bó .Ba năm,chín tháng là những con số  chuẩn ,chỉ hạn cuối cùng để hai vật phẩm này không bị quá “đát”, cũng chứa một ý nghĩa sâu xa : mối tình ở đây đã kéo  dài khá lâu(  ba năm,chín tháng ) trải qua nhiều chông gai nhưng không phai nhạt (đang  còn mặn, hãy còn cay ) Trong một khổ thơ song thất lục bát, hai câu thất có lối ngắt nhịp( 3/2/2hoàn toàn khác  với nhịp câu thơ bảy chữ trong thơ Đường luật thất ngôn (2/2/3) khiến giọng thơ vừa chậm rãi , vừa buồn, nhưng pha chút  mạnh mẽ , khẳng định .Giọng điệu này được hai câu lục bát biến thể đi sau bổ sung , đặc biệt câu bát chứa  mười ba âm tiết càng củng cố thêm thế khẳng định của  hai câu thất . Các vần xoắn xuýt ( vần chân nối lưng , mặn,hãy , cay,dày, ngày ) cùng nghĩa các từ đó  như càng tô đậm …

Câu hỏi :
           1.  theo bạn, từ “ thân” cần được hiểu như thế nào ? Mặt sinh học, mặt xã hội ?  “Em”  chỉ ai ? Con người đó có vị trí như thế nào trong xã hội cũ . Cả cụm từ “ thân em” có ý nghĩa gì ?Nêu những  đặc điểm  của tấm lụa đào ? Địa danh  “Chợ” có ý nghĩa gì ? Các từ “phất phơ, tay ai”  nên hiểu như thế nào ?  Tại sao cô gái lại mượn hình ảnh này để gửi gắm nỗi niềm ? Biện pháp phú, tỉ hay hứng ?
·         2. Hãy mô tả củ ấu ( về  nơi sinh trưởng, hình dáng, giá trị kinh tế ). Đối chiếu với lối so sánh ngầm mà cô gái ví von, hãy nêu cảm nhận của bạn về cô gái ? Thái độ của cô gái trước cuộc sống như thế nào  (tự tin hay mặc cảm, hoặc buông xuôi ) ? Biện pháp phú, tỉ hay hứng ?
·          
·          3. Mẫu đề  “ trèo lên cây khế” . Cụm từ “trèo lên” thường thấy xuất hiện  nhiều trong ca dao xưa ( trèo lên quán   dốc, trèo   lên cây bưởi , con mèo trèo cây cau …)  như để chỉ một điều gì ?  Tạo ấn tượng như thế nào cho người đọc ? Cây khế còn mang một khía cạnh ẩn dụ gì ? một trạng thái tâm lý như thế nào ? . Nửa ngày  là một khoảng bao lâu, dài hay ngắn, mang ý nghĩa gì ? “Sao hôm sao mai” “mặt trăng, mặt trời” có ý nghĩa ẩn dụ như thế nào ? Biện pháp phú, tỉ hay hứng ?
·         4. Ba hình ảnh  xuyên suốt bài  lục bát biến thể này là gì ? Ý nghĩa của những động từ : rơi xuống đất , vắt lên vai , chùi nước mắt )Từ “ khăn” mang giá trị tu từ  hoán dụ chỉ đến người nào ? B Ba lần luyến láy câu thơ  có tác dụng gì về nghệ thuật và nội dung ? Hãy cắt nghĩa từ “ thương nhớ” theo từ điển . Điệp từ này có  tác dụng gì trong việc mô tả tâm trạng nhân vật trữ tình ở bài ca dao ?   Tìm chuỗi động từ trong cặp lục bát cuối bài .Ý nghĩa của nó .Bài ca dao có lối lập luận quy nạp hay diễn dịch ? Vì sao tác giả vận dụng lối này ?
·         5.  Bạn hiểu thế nào về ý nghĩa của hình ảnh “ chiếc dải yếm bắc cầu” ( nghĩa cụ thể, nghĩa ẩn dụ  ) Bạn đánh giá như thế nào mức độ tình cảm của cô gái ?
·          6. Nêu mùi vị của muối,gừng ? Hai vị đi với nhau có ý nghĩa gì trong đời sống hằng ngày và trong hôn nhân ? Ba năm,chín tháng là khoảng thời gian cụ thể  hay còn nói lên điều gì ?Tại sao tác giả dùng thể thơ song thất lục bát ở đây ? Các vần xoắn xuýt  bao gồm những loại vần gì,  có những cặp từ nào, nêu tác dụng ?
                                                          Dalat 07.2014

·          
·          

No comments:

Post a Comment