Bài 1
THỂ LOẠI THƠ
I.
ĐỊNH NGHĨA
Trong các thể loại văn học từng quen thuộc với học sinh bậc phổ thông ,
thơ chiếm một dung lượng không nhỏ . Bắt
đầu là những chùm ca dao trong nguồn văn học dân gian vô tận , tiếp đến là
những bài thơ Đường luật thời trung đại được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, tiếp đến là
dòng thơ ca chữ quốc ngữ, những bài thơ
thuộc nền văn học hiện đại :thơ
mới, thơ cách mạng ,thơ đương đại
.
Một
tác phẩm như thế nào được gọi là thơ ?
Tác giả Sóng Hồng ( nguyên là Tổng Bí
Thư Đảng, Trường Chinh ) đã nêu những giá trị
và đặc điểm thơ như sau : “ Thơ là
một hình thái nghệ thuật tinh vi , cao
quý . Thơ chứa đựng tình cảm, lý trí , kết hợp nhuần nhuyễn,có nghệ thuật. Tất
cả được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ , qua lời thơ trong sáng, vang
lên nhạc điệu khác thường
Thơ
được định nghĩa : Thơ là một trong các thể văn học
hình thành từ sự sáng tạo của con người ,gồm nhiều câu nhịp nhàng,
giàu tính nhạc , mô tả những cảm xúc sâu lắng, những ý nghĩ đẹp đẽ , được viết để bộc lộ những cảm nghiệm đã trải qua . ( từ điển Oxford
)
Hay một định nghĩa khác : thơ là một sáng tác văn học , phản ánh hiện
thực khách quan , thể hiện những cảm xúc sôi nổi , những tư tưởng sâu sắc của cá nhân
( trước đối tượng ) bằng những hình ảnh cụ thể , gợi cảm, trên cơ sở của ngôn ngữ hàm súc , giàu nhịp điệu .
Thơ là một hình thức sáng tác văn học phản
ánh cuộc sống qua những suy nghĩ ,những cảm xúc dạt dào ,những tưởng tượng mạnh
mẽ , trong một ngôn ngữ giàu hình ảnh,có nhịp điệu phong phú .
Có
thể phát biểu ngắn gọn rằng thơ là một ngôn ngữ nghệ thuật với ba đặc tính: cô đọng, ngắn gọn, chặt chẽ;
có nhạc tính; được sắp
xếp trong một hình thức sao cho tập hợp các chữ tạo ra ý nghĩa nhiều hơn tổng số những ý nghĩa ban đầu của từng
chữ ( nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng )
I.
ĐẶC
ĐIỂM NỔI BẬT CỦA THƠ CA
Đặc điểm nổi bật của thể loại văn học này là ngôn ngữ thơ hàm
súc , giàu nhịp điệu ,tinh tế nhất, giàu chất thơ nhất trong các dạng ngôn ngữ . Những điều ấy còn
phải được thể hiện trong giòng cảm xúc chân thành, nguồn tư duy sâu sắc ,những hình tượng có tìm tòi
sáng tạo , đem đến cho người đọc một nội
dung tư tưởng ý nghĩa , tức là nói lên được những điều đẹp đẽ ,cao cả, xúc động
lòng người
Như vậy, hai nội dung chính trong thơ là cảm xúc( hay
suy tưởng ) và tư tưởng của nhân vật trữ tình , Tư tưởng và cảm xúc là hai cột trụ
nội dung của thơ ca
II.
HÌNH
THỨC NGHỆ THUẬT CỦA THƠ
Qua
các định nghĩa trên về thơ, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng, chúng ta thấy
thơ có những đặc điểm sau về hình thức:
1
Thể thơ:
Ba thể loại thơ căn bản là thơ trữ tình, thơ tự sự ,kịch thơ . Ngoài ra, chúng ta còn có trường ca và thơ văn xuôi. Thể thơ là những quy ước về việc sắp xếp từ, ngữ, câu, các
vần, , sự hợp vần giữa các âm tiết và các
câu, sự lặp lại trong một khổ thơ, sự lặp lại giữa các khổ thơ.
Mỗi thể thơ khác nhau , bắt nguồn từ số lượng âm tiết trong câu, số câu trong bài, hay còn gọi là
hình dáng của bài thơ . Thí dụ thơ lục
bát ( có cặp câu 6 và 8 âm tiết ) thơ
thất ngôn bát cú là bài thơ có 8 câu (
bát cú ) mỗi câu 7 chữ ( thất ngôn ).
Thể thơ được xem là vấn đề lớn trong nghệ thuật, vì nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật đều định hình từ đây ..
Để bộc lộ niềm hân hoan khi sự
nghiệp cống hiến cho triều đình hoàn
tất, tận hưởng cuộc sống nhàn tản, Nguyễn Công Trứ đã chọn thể Hát nói . Xuân Diệu cũng phỏng theo thể
này nhằm ca ngợi sức sống đẹp đẽ của
tuổi trẻ .Nguyễn Khuyến trầm ngâm trước cảnh thu ( thu điếu ) với một bài Đường
luật, nhưng cụ đã chọn thể khúc ngâm khi viết Khóc Dương Khuê . Nội dung, chủ
đề luôn gắn liền với một hình thức nhất định, đó là thể thơ .
4 -Hình ảnh thơ: Ngôn ngữ
trong câu thơ vốn chứa rất nhiều hình ảnh được đón nhận bằng thị giác,
có khi bằng tất cả mọi giác quan . Biện pháp tu từ( ẩn dụ, hoán dụ,
nhân hóa, so sánh)
là hình thức nâng hình ảnh thành những biểu tượng mang nhiều tầng ý nghĩa
sâu sắc . Chính hình ảnh đã làm
nên một khía cạnh giá trị nghệ thuật của thơ , bởi thơ không thể chuyển tải
những khái niệm khô khan,trừu tượng, mà lôi cuốn người đọc ở hình ảnh và nhạc
điệu.
5Nhạc điệu : Âm nhạc
nhờ bảy nốt nhạc ( đô , rê,
mi, fa, sol, la ,si ) còn thơ cần có yếu
tố nhạc điệu, đó là âm thanh trầm bổng,
nhỏ to, cao thấp , nhanh chậm vang lên mỗi khi chúng ta đọc thơ . Từ tiếng Việt cũng
có hai hệ thống thanh ( thanh bằng gồm
các âm tiết mang thanh huyền và ngang, thanh trắc gồm những âm tiết có thanh
sắc, hỏi, ngã,nặng ) Nhạc
điệu trong một câu thơ có tác dụng
tô đậm một ý tưởng, nâng lên một hình ảnh ,
đem đến cho người đọc niềm sẻ chia
với tác giả . Tính nhạc của bài thơ bao gồm
- nhịp điệu ( sự ngắt
nhịp nhanh chậm, do nội dung ngôn
ngữ tạo ra ) td: Nửa chừng xuân/thoắt/
gãy cành/thiên hương: nỗi đau trong lòng người đoc, do nhịp đứt đoạn.
- tiết tấu ( cao thấp, do
cách chọn thanh trắc hay bằng ) Câu thơ nhiều thanh bằng chứa cảm xúc êm đềm,
nhiều thanh trắc là cảm xúc xáo trộn…
-vần : do bộ phận vần trong một âm tiết tạo
nên . Gieo vần (tạo sự
lặp lại bộ phần vần giống nhau) là giá trị cơ bản,quan
trọng nhất của một bài thơ, bởi nhờ có vần, nhạc điệu trong thơ trở nên uyển
chuyển,nội dung thơ trở nên hệ thống hơn,cụ thể hơn. Bộ phầnvần, nguyên âm,
thanh là ba yếu tố vừa tạo tính nhạc,đem
đến cho người đọc thơ sự thích thú, cộng với nội dung từng âm tiết, tạo nên câu
thơ,bài thơ. Từ đây,thể loại thơ hình thành . Thơ song thất lục bát có âm điệu
quấn quýt, bộc lộ dòng cảm xúc buồn bã,
triền miên, thơ lục bát gắn với lời ru nhở vần chân và lưng, thơ 5 chữ, 8 chữ
đậm tính kể chuyện, thơ 7 chữ chuyển tải trục cảm xúc phát triển sâu sắc như
thơ Đường. Âm nhạc trong Hát nói buộc nội dung luôn réo rắt, sôi động. Hành và thể thơ
thất ngôn trường đi liền với hai tâm
trạng tương phản ,bi và tráng .
Nhạc điệu phong phú, cùng hình ảnh sống động
dồi dào , ngôn ngữ hàm súc góp phần
xây dựng nên những đặc trưng của
thơ .
6
. Biện pháp tu từ ( Nhân
hóa, ẩn dụ, hoán dụ, so sánh) : Là các thủ thuật sử dụng từ để hình ảnh, nhạc
điệu và đặc biệt nội dung tư tưởng của bài thơ
được sâu sắc, ý nghĩa hơn. Đây là
nét đặc sắc khá rõ của ngôn ngữ thơ, làm cho ý thơ trở nên đẹp đẽ, tinh tế, hàm
súc Điều này ta ít gặp trong thể nghị luận .
8 .Giọng điệu trong thơ . Thế nào là giọng thơ ? Với những bài yêu nước và cách mạng, giọng thơ mang âm
hưởng hô hào, kêu gọi, ,động viên hùng
hồn , mạnh mẽ , khí thế. Thơ trào phúng
đậm tính giễu nhại, châm biếm, đả kích, phê phán, lên án . Thơ trữ tình dào
dạt tâm trạng buồn thương, than vãn hay hạnh phúc, reo vui . Giọng thơ mang theo
ý đồ, mục đích sáng tác của nhà thơ . Mỗi bài thơ mang một giọng điệu khác nhau , đó chính là cung bậc cảm xúc, tư suy tưởng của nhà thơ, chứa đựng ý nghĩa
của bài thơ mà tác giả muốn gửi gấm , cũng là ý định của nhà thơ khi đặt bút sáng tác.
IV ĐỀ TÀI THƠ – PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH
1.Về đề tài,
chúng ta có thơ yêu nước(thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến , Phan Bội Châu )thơ triết lý(thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm )thơ
tình yêu (thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử )thơ cách mạng(thơ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh,thơ Tố Hữu , thơ Nguyễn Khoa Điềm )
thơ hiện thực( thơ Trần Tế Xương )thơ lãng mạn
( Thơ Huy Cận , các tác giả trong phong trào Thơ Mới )
2. Về phương thức phản ánh cuộc sống, có thơ tự
sự(thơ Tản Đà )trữ tình ( hầu hết các
tác giả )
V. NHỮNG
CHỦ ĐỀ TRONG THƠ
Về nội dung tư tưởng , thơ mang theo
biết bao cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng tác giả muốn nói với người đọc 1 . Có thể là một cách để nhìn sâu vào tâm hồn mình ( Mộ của Hồ Chí Minh ,Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão ,Sóng của Xuân Quỳnh , Tự tình I của Hồ Xuân Hương , Thu điếu của Nguyễn Khuyến )
2 .Trăn trở muốn khám phá một sự thật ( Sa hành đoản ca của Cao Bá Quát , Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du )
3. Lòng sôi sục, hô hào, kêu gọi ( Xuất dương lưu biệt, Vội vàng của Xuân Diệu , Việt Bắc của Tố Hữu , Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm )
4 . Tha thiết muốn khẳng định một triết lý sống cao cả (Tây Tiến của Quang Dũng, Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ ,)
5. Mong mỏi được bộc lộ một quan niệm ( Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm , Bảo kính cảnh giới bài 43 của Nguyễn Trãi, Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, Sa hành đoản ca của Cao Bá Quát )
6. Có khát vọng được giao tiếp , kể chuyện ( Tây Tiến của Quang Dũng ,Hầu trời của Tản Đà ),
7 . Chân thành chế giễu châm biếm bản thân, qua đó bày tỏ tấm lòng tri ân người khác ( Thương vợ của Trần Tế Xương )
6.
Có cơ
hội thư giãn, thử nghiệm ngôn ngữ ( Tràng giang của Huy Cận , Đàn ghi ta của
Lorca của Thanh Thảo )
VI .CẤU TRÚC THƠ
Ngoài thể
thơ lục bát đậm màu sắc ca dao, hay Hát
nói mang không khí âm nhạc cổ , học sinh còn tiếp cận với nhiều thể thơ , có nguồn gốc từ Trung Quốc(thơ
Đường, thơ Đường luật, thơ cổ phong)
,Nhật Bản( thơ haiku )Châu Âu (sonnet, thơ
năm chữ, bảy chữ,tám chữ , thơ tự do) Mỗi thể loại có những yếu tố riêng
về số lượng từ, câu, những có chung kết cấu, miêu tả, kể chuyện,ngôn ngữ, giọng
điệu …
1.
Dưới hình
thức một văn bản nghị luận: kết
cấu các bài thơ có nét riêng cho mỗi thể
loại, nhưng cũng có nét chung . Ở thơ
Đường và Đường luật, kết cấu mang dáng dấp một văn bản nghị luận. Ta lại tìm
thấy kết cấu này trong Vội Vàng ( Xuân Diệu) và các bài thơ thất ngôn bát cú Đường lụật .
2.
Dòng cảm xúc phát triển qua
việc xác định thái độ cống hiến , hưởng thụ và triết lý về những
thái độ này, ba tác giả Nguyễn Công Trứ(Bài
Ca Ngất Ngưởng), Cao Bá Quát(Sa Hành Đoản Ca ) và Quang Dũng(Tây Tiến) lại chọn một hướng xây
dựng bố cục giống nhau.
3.
Kết cấu
dưới dạng mô tả thiên nhiên bằng một bức
tranh có bố cục cân đối, bao gồm cảnh ngang tầm mắt, cảnh nhìn lên cao,
nhìn xuống chân và bao quanh , ta gặp sự
tương đồng của Nguyễn Trãi(Bảo Kính Cảnh Giới , bài số 43), Nguyễn Khuyến(Thu
Điếu), Hồ Chí Minh(Mộ), Huy Cận(Tràng
Giang), Hàn Mặc Tử (Đây Thôn Vĩ Dạ )
4.
Kết cấu bằng triển khai dòng cảm xúc theo tâm
lý, tính cách, ta thấy có sự gặp gỡ giữa Hàn Mặc Tử (Đây Thôn Vĩ Dạ ) ,
Puskhin ( Tôi Yêu Em ) ,Phạm Ngũ Lão
(Thuật Hoài) Thiền sư Pháp Thuận và Mãn Giác ( các bài kệ )
5.
Sự rạch ròi về lãnh thổ , nhân dân, đất đai
trong quá trình kháng chiến và khát khao độc lập tự do của Tố Hữu, Nguyễn Khoa
Điềm ( Việt Bắc, Mặt Đường Khát Vọng )
6.
Đậm màu sắc tự sự ( Hầu trời của Tản Đà, Đò Lèn của Nguyễn Duy, Tương tư
của Nguyễn Bính )
VII . TRỤC CẢM XÚC
Với thơ ca, nắm được trục cảm xúc chính là động tác quan trọng khi Đọc Hiểu thơ trữ tình . Từ những đặc điểm rất riêng của thơ “Thơ chứa đựng tình cảm, lý trí , những cảm xúc sâu lắng, những ý nghĩ đẹp đẽ, những cảm xúc sôi nổi , những tư tưởng sâu sắc của cá nhân” hay nói gọn hơn “ dòng cảm xúc mãnh liệt, nguồn tư tưởng sâu lắng” trong mọi bài thơ , chúng ta cần cảm nhận như thế nào ? Đó là cốt lõi của thơ ca . Cái vỏ bên ngoài là từ ngữ ( giàu hình ảnh, ý nghĩa, âm vang )câu đoạn ( ngắn gọn, chứa phong phú các loại tiết tấu , nhạc điệu…)mỗi bài thơ mang theo hai nguồn cảm xúc và tư tưởng đẹp đẽ ấy. Tùy theo thể loại thơ được tác giả sử dụng hay phong cách riêng mỗi nhà thơ, mà “ cốt lõi thơ” bộc lộ đậm đặc .
1 Thơ Đường và Đường luật : thường ẩn giấu kín đáo nỗi lòng thâm trầm, kín đáo của tác giả . Bài thơ có hai phần cơ bản là Đề và Kết, thì cảm xúc, suy tưởng chính nằm ở đây. Đọc câu phá đề và câu kết cuối ( câu 8), ta sẽ nhanh chóng đồng cảm với khao khát được có cơ hội nhìn sâu vào tâm hồn mình ( Mộ của Hồ Chí Minh, Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão, Tự Tình I của Hồ Xuân Hương,) đón nhận lời hô hào và tâm trạng đầy phấn khích của nhà chí sĩ cách mang ( Xuất Dương Lưu Biệt của Phan Bội Châu ) tấm lòng thương yêu vợ, thái độ nghiêm túc phê phán mình ( Thương Vợ của Trần Tế Xương ) tâm hồn thanh thản, trân trọng một lựa chọn ( Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bảo Kính Cảnh Giới, bài số 43 của Nguyễn Trãi ) nỗi cảm thông sâu sắc với người đồng cảnh ngộ , thái độ phê phán cái ác quyết liệt ( Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du ). Đặc biệt, từ thứ hai trong câu thừa đề của những bài thất ngôn bát cú có thể xem là linh hồn của bài thơ, bởi vì từ này gói gọn cảm xúc sâu sắc nhất mà tác giả muốn trang trải qua bài thơ chỉ có tám câu bảy chữ này .Với tác phẩm của Nguyễn Trãi đã nêu ở trên, từ “ đùn đùn” là từ tả cảnh, mang ý nghĩa là cảnh vật, cuộc sống đang phát triển ở giai đoạn cao nhất, tốt nhất đẹp đẽ nhất, về tinh thần, và no ấm, đầy đủ nhất , về vật chất , đồng thời là cụm từ mà Nguyễn Trãi gửi theo niềm hạnh phúc tột độ, sự cảm nhận tốt đẹp nhất về cuộc sống thanh bình dưới thời Nhà Lê . Chính vì thế mà ông như muốn reo to : dân giàu đủ khắp đòi phương . Trong bài thơ Nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng cụm từ “ thơ thẩn” nối với câu kết “ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” là một thái độ sống đơn giản , như nhà nghiên cứu Chương Thâu đã nhận định với tâm trạng thanh thản, thư thái .Trước tập nhật ký của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du xót xa “ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” bởi ông đã “ độc điếu”, một mình khóc thương cho người con gái bạc mệnh này .Hồ Xuân Hương ảo não thở dài “ trơ” cái hồng nhan, sự cô đôc, lẻ loi tận cùng, để sau đó bà chiêm niệm một sự thật “ mảnh tình san sẻ tí con con” đau đớn trong cuộc hôn nhân không trọn vẹn của chế độ đa thê . Phan Bội Châu lưu một món quà cho thanh niên trước buổi lên đường sang Nhật học “ khẳng hứa” và “ thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”, là thề hứa cho bằng được ( khẳng: cho bằng được, hứa: thề hẹn )phải ra đi trong tư thế đầy sảng khoái và quyết tâm .Trần Tế Xương trân trọng sự hy sinh vô bờ bến của vợ chỉ qua hai từ “ nuôi đủ” và xót xa ân hận về con người vô tích sự của mình “ có cũng như không” . Tuy nhiên cũng có một số trường hợp ngoại lệ.
2. Với
những bài thuộc dạng Hát nói, âm hưởng chính là tâm trạng hân hoan, sảng khoái, trí tuệ hướng về viêc ngợi ca, tự hào về một đối tượng nào đó
( cảnh Hương Sơn, lối cống hiến và hưởng thụ trọn vẹn trong Hương Sơn Phong
Cảnh Ca và Bài Ca Ngất Ngưởng của Chu Mạnh Trinh và Nguyễn Công Trứ ).Thể Hành được dùng để bày
tỏ tâm trạng bi tráng, có xót thương nhưng có tự hào ( Tây Tiến của Quang Dũng
) hay ngược lại ( Sa Hành Đoản Ca của
Cao Bá Quát)
3. Ảnh hưởng thi ca Pháp và Châu Âu, các tác phẩm thơ mới và thơ năm chữ, bảy chữ, tám chữ ,thất ngôn trường thiên… mang theo dòng cảm xúc tăng tiến phát triển suốt bài thơ . Đọc Tràng Giang của Huy Cận, chú ý hệ thống từ ngữ tả cảnh lẫn tả tình theo bố cục bài thơ có trình tự không gian (chiều dài con sông, chiều rộng, cảnh bao quát ) Có lẽ tâm trạng bồi hồi khi dừng xe, ngồi xuống bãi cỏ ven bờ, nhìn dọc theo chiều dài con sông ,thấy lòng “ buồn điệp điệp, sầu trăm ngả”(khổ một), nhìn qua bên bờ sông và xung quanh, vắng vẻ, quạnh hiu, mới da diết cô đơn “ không cầu, không một chuyến đò ngang” (khổ hai)để cuối cùng “nhớ nhà” ( khổ ba ).Chuỗi tâm trạng của một thanh niên đôi mươi khi nước nhà đang chìm trong nô lệ chăng? Với nhà thơ Hàn Mặc Tử, dòng tâm trạng thay đổi theo trục thời gian ( quá khứ, hiện tại, tương lai)Hiện tại, nhà thơ reo vui “ vườn ai” bây giờ bỗng thấy xa lạ với quá khứ “thuyền ai? Nhìn về tương lai, nhà thơ ngẩn ngơ buồn “ ai biết tình ai” . Đò Lèn là những kỷ niệm tuổi thơ hồn nhiên và gian khó của nhà thơ bên ngươi bà, qua đó Nguyễn Duy bộc lộ tình cảm thương yêu bà và day dứt khi “ biết thương bà thì đã muộn” .
Tố Hữu trong Từ Ấy cũng khai thác dòng tâm trạng theo trục tâm lý ( cảm nhận, suy nghĩ ,hành động ) Nhà thơ dạt dào xúc động (bừng nắng hạ) khi giác ngộ chân lý: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản Cảm xúc hạnh phúc này đã tạo cho ông có những chuyển biến trong nhận thức . ( cần phải gắn bó với quần chúng nhân dân ) qua khổ cuối, hành động mới là điều cần thiết để tọa nên một “ khối đời” mạnh, cúi xuống ,chan hòa và hy sinh. Puskhin cũng xây dự chuỗi tâm trạng yêu đương của mình qua hệ thống đồng dạng song song, một bên là xúc cảm từ con tim, bên kia là ý thức về nhân cách. Qua câu chữ không hề có một ý nghĩa ẩn dụ nào, nhà thơ cho chúng ta hiểu, với ông tình yêu cũng là thước đo nhân cách: sự mạnh mẽ, sự chín chắn, sự chân thành , sự rộng lượng . Nhà thơ nữ Xuân Quỳnh chú ý dựng cái khung “ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hôn nhân” để kể lại câu chuyện tình giữa song và bờ : sống bằng khối óc và trái tim, gắn bó, thủy chung, mãnh liệt, vị tha .Puskhin và Xuân Quỳnh có Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc và Nguyễn Khoa Điềm với Mặt Đường Khát Vọng đã mượn thể trường ca để thể hiện niềm tự hào và trách nhiệm của mình đối với chính quyền tiến bộ, có Đảng, với lãnh thổ và nhân dân .Dù ra đời ở hai thời điểm lịch sử khác nhau, cách chọn Tổ Quốc ( có chính quyền, đất đai ,nhân dân ) khác nhau, nhưng đều hướng về một Việt Nam ngàn năm văn hiến.
Các biện pháp nghệ thuật trong thơ cũng có những nét chung, đó là cơ sở để giúp chúng ta hiểu được “ dòng cảm xúc mãnh liệt, nguồn tư tưởng sâu lắng” của mỗi bài thơ .
KẾT LUẬN .
1.
Nhà thơ Thanh Thảo đã chiêm niệm ra một ý
nghĩa sâu sắc của thơ : Phải coi thơ là cái đến với ta đầu tiên và còn lại sau
cùng. Nó có thể giải tỏa cho con người bao nhiêu nặng nề, đồng hành với con
người qua bao nhiêu trạng huống của cuộc đời
2.
Robert Frost là một trong những nhà thơ lớn của nước Mỹ. Ngày 20.1. 1961, ông
được Tổng thống J. F. Kennedy mời đọc thơ trong buổi lễ tuyên thệ nhậm chức của
ông . Nhà thơ lúc bấy giờ đã tám mươi
bảy tuổi . Mới đầu ông dự định đọc bài “ Dedication” in sẵn trên giấy, nhưng khi đứng trên bục,
ngược nguồn nắng chói và xúc động, mắt ông bị nhòa đi, ông đã đọc bài “ The
Gift Outright” mà ông thuộc hơn. Bài thơ nói về đất nước Hoa Kỳ , quê hương của ông và tân tổng thống.
Vì sao vị đứng đầu một quốc gia hùng mạnh
nhất thế giới những ngày ấy đã mong mỏi được đọc thơ chúc mừng? Câu trả
lời xin dành cho mỗi chúng ta .
( Dalat Tết Nguyên Tiêu 2018)
No comments:
Post a Comment