Monday, August 26, 2019

Bài 17 THỂ LOẠI THƠ MỚI BẢY CHỮ ĐÂY THÔN VĨ DẠ (Hàn Mặc Tử)



I TÌM HIỂU CHUNG :
1        Thể loại:
-  Bài thơ được sáng tác trong dòng Thơ Mới ( 1932-1945), có  các điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật: đề cao cái tôi cá nhân- nghệ thuật là sự dung hòa của nhiều nét đẹp trong thơ dân gian, thơ Đường, thơ Đường luật và thơ phương tây
- Tác giả chọn thể bảy chữ bốn câu,mỗi khổ  phảng phất hình ảnh thơ Đường  hay Đường luật ( vần ôm ) thơ phương tây ( vần chéo ) Ngôn ngữ , hình ảnh  giản dị, gần gũi như lời ca dao,khác lạ với phong cách được đánh “Thơ Hàn Mạc Tử  đi từ chất thâm trầm của thơ Đường (Trung Quốc ) đến   lãng mạn của Baudelaire và Edga Poe , nhà văn Mỹ .  Nhà thơ có đức tin công giáo đã   chọn nhiều màu sắc Thánh Kinh của Thiên  Chúa giáo vào trong khá nhiều tác phẩm của mình”( Hoài Thanh )
- Có lẽ, bài thơ mang theo  con người thật của thi nhân hơn là con người thơ ca, dù cái tôi chính là hình  bóng mỗi nhà thơ mới. Lời thổ lộ như rút ruột gan  , giãi bày nỗi buồn, niềm vui và tuyệt vọng trong tình yêu cao đẹp ở thời khắc cuối cuộc đời thật trẻ, hẳn là lời rỉ máu ,chân thật và thiết tha, nên không cần  vận dụng một ngòi bút nào khác ngoài ngôn ngữ con tim .
-Mượn kết cấu của thể thơ mới (khổ   bốn câu của thể sonnet , vần xéo, câu thơ có nhiều thanh bằng )lại có hơi hướm thơ Đường luật ( nhiều khổ  dưới dạng một bài tứ tuyệt, vần ôm ,  khổ đầu mang theo một bức tranh phong cảnh có kết cấu cân đối của thơ cổ, một số từ Hán Việt trang trọng:  chữ điền, nhân ảnh, như dụng ý trân trọng  đối tượng nói đến), còn lại, chất dân tộc mộc mạc, giản dị, nhưng tinh tế , chắt lọc hiện  lên ở mọi từ ngữ mọi câu thơ , khổ thơ ,giọng thơ . Đó là cách dùng đại từ “ai” phổ biến trong ca dao. Ở đây tác giả  khéo léo đặt đều trong ba khổ : vườn ai, thuyền ai,  tình ai .Tình cảm gần mà xa, sâu mà nhạt,  chỉ có thế, chẳng khác nào chàng trai  ướm ngỏ với cô gái “ ai đi đường  đó hỡi ai, hay là trúc đã nhớ mai đi tìm” . Đó là lối nhấn nhá từ , như tô đậm thêm cảnh tình muốn tả : nắng hàng cau, nắng mới lên, khiến màu nắng vàng như rực rỡ hơn mướt quá, xanh ,ngọc  màu xanh của cây cỏ tràn trề nhựa sống, nhưng cũng từ đó, nỗi mất mát cũng lũy tiến . Gió đường gió, mây đường mây ,khách đường xa ( hai lần ) trắng quá, nhìn không ra , ai biết tình ai. Nhay đi nhay lại với bấy nhiêu tâm cảnh, nỗi lòng, như một vết dao cứa đớn đau.


 Cách ngắt câu  như vế tiểu đối trong ca dao ( gió theo lối gió,mây đường mây)âm hưởng ca dao, sự chia lìa .
 Vô số hình ảnh ẩn dụ,( phổ biến trong thơ mới ) lại dùng rất tự nhiên,để tả thiên nhiên, lẫn tả tâm trạng. Bến thuyền là hai hình ảnh chở theo  một biểu tượng tình yêu thủy chung . Thuyền là chàng trai , sống đời phiêu bạt giang hồ, còn bến là cô gái kiên định đợi chờ . Trăng là tình yêu,sự gắn bó của hai tâm hồn luôn hướng về nhau ấy. Trăng còn là một hình ảnh hoán dụ, chỉ nhà thơ.Hàn Mặc Tử rất yêu trăng .
 Hình ảnh nhân hóa,biện pháp thường được  dùng ở thơ mới  (  giòng nước buồn thiu , sương khói mờ nhân ảnh) hai hình ảnh bổ sung cho nhau, đẩy nỗi dự cảm(  hiện hữu trong những thi nhân nhạy cảm, trực giác như Hàn Mặc Tử )  đến hiện thực.
 Cảnh xứ Huế,vùng Vĩ dạ là “một  chiều vắng đìu hiu,”( gió theo gió,mây theo mây ) Hương Giang lững lờ, trăng nước vờn đôi bờ ( giòng nước buồn thiu ) trăng nước vờn đôi bờ (  thuyền ai có chở trăng về kịp.) vườn ai,thuyền ai,ai biết (Ai về gửi thương nhớ chốn ngàn thơ ) . Sự đồng điệu giữa hồn nhạc Minh Kỳ và hồn thơ Hàn Mặc Tử cũ góp phần người và cảnh Huế  vương vấn mãi lòng người.


2        Tác giả :  Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên".  (tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22 tháng 9, 1912 – mất 11 tháng 11, 1940) là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Cuộc đời Hàn Mặc Tử vốn là một chuỗi ngày dài bi thương và đầy đau khổ. Ông sinh ra ở Quảng Bình nhưng lớn lên cùng mẹ tại Quy Nhơn (Bình Định). Trước khi làm thơ, ông từng có thời gian làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định và làm báo tại Sài Gòn. Vốn là một người hào hoa lãng mạn, Hàn Mặc Tử đã trải qua rất nhiều mối tình với những cô gái xinh đẹp như  Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương.. (cả mối tình đơn phương với Hoàng Thị Kim Cúc). Nhưng cuối cùng, Hàn Mặc Tử lại quay về với sự cô đơn. Năm 1936, ông mắc bệnh phong, phải quay về Quy Nhơn chữa bệnh  Chính cuộc đời đầy sóng gió- đặc biệt là chuỗi ngày tàn tại Quy Nhơn đã ảnh hưởng rất lớn đến hồn thơ của thi sĩ . Hàn Mặc Tử có rất nhiều tập thơ, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến tập “Thơ Điên” (1938) (về sau đổi thành “Đau thương”). Ngay trong chính tựa đề, chúng ta đã có thể nhận ra  một phần  nội dung của nó, đó là những vần thơ rớm máu, có phần “điên” loạn và đậm nỗi “đau thương”. Và điều  “cất lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống” cũng thể hiện rất rõ trong tập thơ này.
3        Hoàn cảnh sáng tác :“ Đây thôn Vĩ Dạ  là một trong những bài thơ “cất lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống” . Hàn Mặc Tử viết bài thơ này tặng  một cô gái có tên là Cúc vào khoảng  giữa năm 1939 ,  trước thời điểm nhà thơ bạc mệnh này mãi mãi đi xa chỉ hơn một năm (Hàn Mặc Tử mất ngày 11.11.1940). Một món quà tao nhã  của chàng trai trẻ gửi người thiếu nữ quen biết một thời, lại trở nên kiệt tác văn chương của nền thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930-45, điểm một mốc son đẹp đẽ của phong trào Thơ Mới.
Trước khi tìm hiểu  yếu tố này, hãy trở về thời điểm thập niên 30 của thế kỷ trước, khi người viết và người nhậnđang ở tuổi đẹp nhất cuộc đời: tuổi mới  hai mươi .Ngày ấy(1932-36)  ,thi sĩ làm việc ở Sở Đạc Điền , Quy nhơn. Anh có một người bạn tên là Hoàng Tùng Ngâm . Cô gái Hoàng thị Kim Cúc, nhỏ thua Hàn một  tuổi, là chị thúc bá của Ngâm. Hàn và Cúc lại sống cùng con phố Khải Định .Cúc kể mối tình Kim Cúc – Hàn Mc Tử chỉ là một mối tình im lặng. Hàn Mạc Tử không hề ngỏ một lời nào với Kim Cúc. Thi sĩ cũng không hề nhờ băng nhân đến nhà giạm hỏi. Năm 1936, Cụ Hoàng Phùng(thân phụ ) hồi hưu, cô Kim Cúc theo song thân và gia đình về Huế, ở tại Vỹ Dạ. Hoàng Tùng Ngâm ở lại Qui Nhơn và vẫn làm sở Địa Chính  . Năm 1936, khi xuất bản  tập thơ đầu tay Giá Quê , Hàn Mc Tử có ngỏ ý với Hoàng Tùng Ngâm rằng sẽ cho in lời đề tặng Kim Cúc   trang đầu tập thơ,  nhưng Kim Cúc tỏ thái độ không bằng lòng sự đề tặng lộ liễu ấy . Kim Cúc đã có vẻ  rụt rè, khép  kín, hờ hững khi gặp Hàn Mc Tử. Điều này càng khiến cho nhà thơ càng  khó có cơ hội bộc bạch nỗi niềm, nhưng ngưỡng mộ một thiếu nữ khuê các , lá ngọc cành vàng , đoan trang và hiểu  biết . “ Gần cuối năm 1936, khi Tử về dự hội chợ Huế, mang theo một xấp Gái quê vừa in xong, có gặp tôi cùng đi với anh em tôi trong hội chợ. Tử đưa tặng anh em tôi mỗi người một tập, có đề chữ tặng, không tặng tôi mà chỉ yên lặng nhìn!  Mấy hôm sau, Ngâm cho biết: Tử có về nhà tôi ở Vỹ Dạ  lặng  đứng ngoài ngõ nhìn vô, rồi từ đó chúng tôi không gặp nhau lại, không thư từ, thăm viếng, hứa hẹn, mỗi người một ngả,”( lời tâm sự của bà Kim Cúc ) Gần cuối 1939, qua bạn bè ,Kim Cúc  biết tin Hàn Mc Tử đau nặng nên  Cô gửi thư thăm hỏi . Thư  chỉ là một bức phong cảnh.  Chính cô Kim Cúc cũng đã nói rõ “trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang, với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống mặt nước, với lời thăm hỏi sức khỏe Tử viết sau tấm ảnh mà không ký tên.”  Vài tháng sau, người bạn gởi về cho Cô bài thơ “Ở Đây Thôn Vỹ Giạ”; với mấy dòng thăm hỏi trong đó có hai câu: mong ơn trên xuống lộc cho túc hạ( tôn kính người nhỏ tuổi hơn ) thật đầy đủ. Và mong rằng một mùa xuân nào được gặp lại túc hạ mới phỉ tình cho. Hàn Mạc Tử  có nhiều mối tình. Hình bóng ghi đậm nhất là với Hoàng thị Kim Cúc, một cô gái đất Thần Kinh, mối tình đầu .
Theo nhiều người , đó chính là một mối tình – một đóa hoa mơn mởn nở ra dưới bóng mát bao dung của sự yên lặng. Đó không phải là một mối tình câm, mà chính là mối duyên nở dần ra trong im lặng như lời thơ :
Do đó, Hàn Mạc Tử mới viết :
Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường
Không dám sờ tay sợ lâm hương
Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Muốn ôm hồn Cúc ở trong sương
Nhưng trong cảnh ngộ đầy đau thương : bệnh tật dường như vô phương cứu chữa, mọi người xa lánh, con đường thực hiện ước mơ một nhà báo, một thi sĩ bỗng bị chận lại, không lối thoát , những mối tình đẹp và bao ước vọng đều tiêu tan, nhà thơ gào thét trong đau đớn, trong điên loạn, trong những vần thơ chảy máu, thì bỗng “người xưa đến”Một thời tuổi hai mươi với biết bao kỷ niệm đẹp và  vui . Thi sĩ nhìn bức ảnh trên postcard, hạnh phúc trào dâng .Dường như qua hình ảnh  vô hồn, là cả một  Vĩ dạ êm đềm bên sông Hương, nơi Hoàng Cúc  đang sống, hiện lên , rất sống động. Hàn Mặc Tử đã đến đây
4       Đọc hiểu :
    Bài thơ “Ở Đây Thôn Vỹ Giạ” chỉ có ba đoạn , kể lại một câu chuyện đẹp của hai con người trẻ . Khổ đầu, hiện lên trước mắt chúng ta một bức tranh nên thơ, tươi mát, có bố cục thật cân đối về thôn Vĩ .
     Làng Vỹ Dạ, địa danh do hai chữ Vy Dã đọc trại ra. (“Vy” là lau lách. “Dã” là cánh đồng. “Vy Dã” có nghĩa là cánh đồng lau lách)  Những cư dân đầu tiên đã khai phá những cánh đồng lau sậy thành lập nên làng Vỹ Dạ trù phú, nên thơ nằm bên dòng sông Hương. Thôn Vỹ phía bờ sông Hương chạy dọc theo con đường Thuận An (cũ), những ngôi nhà vườn kín cổng cao tường. Có lối đi xuống bờ sông, những cây cổ thụ sum suê soi mình trên nước. Phía đông là những khu vườn rộng lớn, nhìn ra cánh đồng mênh mông, trải dài đến sông Như Ý.
 . Thôn Vỹ có nhiều nhà cổ và phủ đệ của các hoàng tử, công chúa, quan lại. Những phủ đệ như phủ Tuy Lý Vương, phủ Dương Phước, nhà ông Vĩnh Cường, Vĩnh Tháp, biệt thự ông Phạm Doãn Điềm… đẹp nổi tiếng. Trong vườn thường trồng nhiều loại cây ăn trái và lấy bóng mát như nhãn lồng, khế ngọt, đào tiên. Thôn Vỹ thu hút nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng như Tuy Lý Vương, Đạm Phương, Chế Lan Viên, Hữu Ngọc, Điềm Phùng Thị, Nguyễn Khoa Điềm, Bửu Chỉ.   Khách đến viếng,  tiếng lá lao xao trong nhà vườn, tưởng như nghe vẳng tiếng thơ trong trẻo, tươi mát của Hàn Mặc Tử … Cồn Hến bên kia đường  nổi lên giữa sông Hương  từng nổi tiếng với món ăn dân dã, đặc  trưng của xứ Huế là cơm hến và chè bắp.
a.       Hạnh phúc đơn sơ   trong quá khứ :Hoàng Cúc lể Hàn Mặc Tử đã có về nhà tôi ở Vỹ Dạ  lặng  đứng ngoài ngõ nhìn vô rồi quay đi ” , bây giờ, một cảnh Vĩ Dạ lại rất gần , tấm bưu ảnh trong tay . Cả hai đã góp lại thành một thôn  Vĩ mà nhà thơ đang đặt chân đến, nhìn lên cao là “ nắng hàng cau” ,nhìn ngang tầm mắt có “ lá trúc che ngang mặt chữ điền, bao quanh thật xanh mát với  những  khu vườn thôn Vĩ . Tâm hồn gắn bó, hòa  vào cảnh với tất cả giác quan và cảm xúc mới tận hưởng cảnh với nhiều đường  góc như thế .Bốn câu thất ngôn, dường như có hai nhân vật đang trò chuyện . Người  đầu tiên , hẳn chủ nhân chiếc bưu ảnh, lẫn khung cảnh thôn Vĩ lên tiếng chào mời  thật dịu ngọt, trong một câu thơ với rất nhiều thanh bằng. Cô muốn giới thiệu với tác giả luồng nắng ban  mai trong lành của quê mình . “Nắng hàng cau, nắng  mới lên”. Nắng mang yếu tố tả thực lẫn ẩn dụ là nguồn sống cho cây cỏ,con người . Hai từ nắng đi liền  còn mang thông điệp của một tình yêu bắt đầu nồng đượm . Và lời khách cũng  reo vui đầy hân hoan bởi  bao quanh anh  san sát những  khu vườn  cây lá sum suê, tràn đầy sức sống. Anh chỉ có thể ngỡ ngàng thốt lên , không màu mè  : mướt quá, xanh như ngọc . Thật yên ổn khi sống giữa thiên  nhiên hào phóng, rộng mở , tươi đẹp như thế . Và nhìn ngang tầm mắt là một nụ cười, một ánh mắt đôn hậu qua cành trúc .Câu hỏi nhẹ nhàng, ân tình , gần gũi “ Sao anh không về chơi” , ( chứ không hỏi là  “ về thăm )đã đáp lại bằng tấm lòng rộn ràng hạnh phúc “ vườn ai mướt quá” bởi trong  đó có một khuôn mặt chữ điền gieo lòng anh nỗi tin cậy .Đó là phút thực tại hiếm hoi . Từng từ ngữ, rồi câu thơ, đoạn thơ, cứ  hiện  ra rõ ràng,  như lời nói mộc mạc ,chân thành, không cần phải gọt giũa. Tất cả đều là lời ăn tiếng nói rất thuần Việt  hàng ngày, chỉ duy một từ trang trọng “điền” là từ Hán Việt, như ngầm tôn quý vẻ phúc hậu của chủ nhân .Hạnh phúc đơn sơ chỉ cần có thế : một buổi mai bắt đầu ngày mới,  yên ổn trong khu vườn xanh mát, nắng ấm, có một tâm hồn giản dị đang thủ thỉ,lắng nghe . Biết bao con người, qua bao thế hệ, mọi vùng miền ,  tìm được sự bình an qua những vần thơ giản dị mà đẹp đẽ đến thế .
b. . Dòng tình cảm ngày một nhạt phai :.Đoạn thơ thứ hai cũng là lời  trao đổi hai con người , nhưng cảnh và tình  dường như không rộn rã như vườn thôn Vĩ . Cảnh ngoài sông, và thời gian là chuyện của quá khứ , khi Hàn về cách đây ba năm. Khách thẫn thờ nhìn cảnh ngang tầm mắt : dòng sông Hương chầm chậm trôi, những khóm bắp trổ hoa, phất phơ lay nhẹ , bên cồn Hến. Sông Hương vốn lững lờ từ bao đời, do mặt sông  bằng với mực nước biển . Nhưng nhà thơ lại nhìn thấy “ dòng nước buồn thiu”  Con sông  đã được nhân hóa bởi lòng người ngắm gửi  nỗi buồn hiu , buồn thấm thía trong nỗi cô đơn, xa lạ . Ngước nhìn trời, không còn nắng mà chỉ thấy gió và mây, nhưng tách biệt ,ai đi đường nấy, như Hoàng Cúc đã tâm sự ,sau khi nhà thơ về Huế để   giới thiệu tập Gái Quê .  Hai câu sau, có lẽ tác giả tưởng tượng đến lời lo lắng  của cô gái thôn Vĩ năm xưa : có chở trăng về kịp tối nay ? Thuyền và bến vốn là những hình ảnh ẩn dụ quen  thuộc trong ca dao .Thuyền bôn ba muôn phương, còn bến một nơi chờ đợi . Trăng mang ý nghĩa ví ngầm của tình yêu . Câu mời mọc ân cần đầu  thơ “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”có pha  chút trách móc dịu hờn ,thì bây giờ ,lại như tiếng thở dài . Trên kia, nhà thơ reo vui “ vườn ai” bây giờ bỗng thấy xa lạ với “thuyền ai? Vẫn những lời thơ giản dị, không cầu kỳ, cảnh cũng gần giũ,  nhưng đượm màu chia phôi : gió lối gói/mây đường mây; hoa bắp lay/nước buồn thiu;  trăng đầy thuyền/ bến hững hờ    vẫn lay động nhiều tâm hồn, cả những con người chưa từng thấm thía nỗi buồn yêu đương như nhà thơ đa tình, đa sầu của chúng ta .
 Hiện tại, nhà thơ reo vui “ vườn ai” bây giờ bỗng thấy xa lạ với quá khứ  “thuyền ai?   Nhìn về tương lai, nhà thơ ngẩn ngơ buồn “ ai biết tình ai” . Không còn phân thân hai con người, mà  chỉ có lời độc thoại của một mình nhà  thơ . Một khuôn mặt chữ điền, một bến sông trăng, và bây giờ là khách đường xa, là nhân ảnh . Dòng tình cảm ngày một nhạt phai . Ở trên  nhìn vườn thôn Vĩ dù ngỡ ngàng nhưng thân thiết , bây giờ lại “nhìn không ra” với biết  bao cay đắng, tủi hờn . Cả khung cảnh xanh mướt và nắng ấm đã  thay vào đó là một màn khói sương mờ ảo Cụm từ “khách đường xa” nhắc hai lần,chiếm gần trọn dung lượng câu thơ bảy chữ , đi sau từ mơ, cộng với từ “nhân ảnh” , đã làm cho khoảng cách từ Huế vào Quy Nhơn vốn không gần, đã rất xa . Cộng thêm   nỗi xót xa, ngậm ngùi 
   3 Nỗi mặc cảm ,tủi hờn trong thi nhân “Tình đậm đà” là  cảm nhận đầu tiên khi nhà thơ đặt bút viết những câu chữ tặng Hoàng Cúc.  Có lẽ ý định ban đầu  chất chứa  tràn đầy niềm hạnh phúc ấy, bởi lúc này Hàn Mặc Tử, trải  qua bao mối tình, vẫn sống trong cô độc, và nay căn bệnh nan y đang đe dọa  sự sống chàng trai tuổi chưa ba mươi từng giây phút . Nhưng rồi thi nhân nhận ra một quá khứ  có nhiều khoảng cách giữa hai người, một mối tình đơn phương , cho nên ông nhìn về tương lai với chất chồng cay đắng . Nỗi mặc cảm ,tủi hờn trong thi nhân,cũng là tâm trạng của nhiều con người, qua nhiều thế hệ,thấm thía, chuyện yêu đương, những quan hệ thông  thường giữa người và người. Cách dùng từ vẫn giản dị, như tuôn ra tự đáy lòng, không chú tâm gọt giũa, không vay mượn thơ phú nước ngoài, mà là ngôn ngữ giao tiếp trong cuộc sống, ai cũng tìm thấy đó là ngôn ngữ của riêng mình, nhưng không dễ mấy ai chắp nối thành câu thơ, bài thơ  vần điệu, hình ảnh, tâm tình lồng ghép rất đơn sơ mà tinh tế, mộc mạc mà sâu lắng .Có lẽ vì thế , bài thơ  được trở nên kiệt tác văn chương của nền thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930-45, điểm một mốc son đẹp đẽ của phong trào Thơ Mới, được sự cộng hưởng rộng rãi  và lâu bền trong tâm hồn  của nhiều thế hệ người đọc  .

Câu hỏi : 1. Hãy tìm hiểu vài nét về thân thế,sự nghiệp, phong cách nhà thơ Hàn Mặc Tử .
                2. Chứng minh rằng khổ đầu là một bức tranh phong cảnh thôn Vĩ đẹp , màu sắc tràn đầy sự sống, niềm tin yêu con người trong giây phút hiện tại .Câu hỏi tu từ và từ “vườn ai” có ý nghĩa gì ?Giọng điệu đoạn thơ này như thế nào ?
                3. Khổ hai tác giả phân thân thành hai người ở thời khắc quá khứ  . Một là nhà thơ ( hai câu đầu ) cảm nhận sự chia lìa, cô đơn, một là  cô gái trách móc anh chậm chân . Cảnh ở đây vừa thực, vừa mộng, mang nhiều yếu  tố đối lập .Chứng minh .Câu hỏi tu từ và từ “thuyền  ai” có ý nghĩa gì ? Giọng điệu đoạn thơ này như thế nào ?

                4.Bạn có nhận xét gì về màu sắc trong khung cảnh khổ cuối mà tác giả vẽ lên trong tương lai . Hòa hợp, tương phản hay lấn át nhau ? Câu hỏi tu từ và từ “tình   ai” có ý nghĩa gì ?Bạn có nhận xét gì về động từ “nhìn nắng”,  cụm từ “ mướt quá” (khổ 1 ) , và “ nhìn không ra” ,cụm từ “trắng quá” (khổ cuối ). Hệ thống danh từ “ mặt chữ điền, bến sông trăng , nhân ảnh” có ý nghĩa gì ? Tình cảm thay đổi như thế nào qua những từ này ?  Giọng điệu đoạn thơ này như thế nào ?
              5 .Vì sao bài thơ  được đánh giá là kiệt tác và được nhiều người yêu thích ?

( Dalat 7.2014 )






No comments:

Post a Comment