I.
TÌM
HIỂU CHUNG :
1. Thể Hát nói :
a. Định nghĩa : Hát nói là thể thơ dân tộc,hình thành trên cơ sở một hình
thức thơ ca ổn định, cần phải đi kèm với âm nhạc của một làn điệu trong hát ả
đào .
Hát ả đào có nhiều làn điệu.Hát nói
chỉ là một làn điệu của hát ả đào, có hình thức văn học và âm nhạc hoàn chỉnh nhất .
Xét về mặt văn học, hát nói được xem là một thể thơ cách
luật .
b Bố cục: . Một bài hát nói chính cách phải có 11 câu
, chi làm 3 trổ (khổ ).Theo tính chuyên môn của nhà trò, tên gọi các trổ, các
câu trong bài hát nói cụ thể như sau :
-Trổ đầu
: 4 câu, từ câu 1 đến 4 (tương đương
với phần Nêu vấn đề trong một văn bản
nghị luận ), gồm có câu 1-2: lá đầu ( nêu ý chính của toàn bộ bài hát nó,) câu 3-4 :
xuyên thưa (mở rộng các câu 1-2 )
- Trổ giữa
: 4 câu, :từ câu 5 đến câu 8 (
giải quyết vấn đề ) gọi là thơ gồm có hai câu( 7-8) qui định bắt buộc phải
viết bằng thể thơ thất ngôn, hoặc ngũ ngôn, có nội dung đưa ra một phương châm
sống. Xuyên mau (mở rộng ý phần
giải quyết vấn đề)
Có những trường hợp tác giả muốn mở rộng ý tưởng phần này, với
mục đích bàn bạc, đánh giá về các câu thơ
và xuyên mau , tác giả dồn vào bốn
câu ( một trổ ) hay tám câu ( hai trổ )
Các trổ này gọi là trổ dôi
(thừa )
- Trổ xếp : 3 câu (kết luận)
-dồn : (đúc kết lại giá trị toàn bài )
- xếp
: (liên hệ bản thân với cuộc dời)
-Keo : (rút ra phương châm sống )
Ngoài ba phần chính, các bài hát nói còn có
thêm phần Mưỡu, gồm hai hoặc bốn câu lục bát
( nêu bao quát ý nghĩa toàn bài thơ ). Mưỡu đầu ( khi nằm ở đầu bài thơ ) mưỡu cuối ( cuối bài ) Mưỡu
đơn (một cặp lục bát) mưỡu đôi ( hai cặp lục bát )
c. Tính nhạc : Hát nói rất giàu âm điệu ( nhịp
nhanh chậm ) nhạc điệu ( tiết tấu cao thấp, bổng trầm ).Nhịp luôn thay đổi, có
thể là 1/3/3 , 3/2/3 …, không có quy định minh bạch như ở
thể thơ lục bát ( 2/2) thất ngôn bát cú ( 4/3) hay song thất lục bát ( ¾) các nhạc
điệu cũng tự do , phóng túng , nhờ luật
bằng trắc ,thoải mái, lại có hệ thống vần chân quyện chặt lấy nhau ( liên vận )
, khiến tác phẩm văn học có tiết tấu sôi nổi, giai điệu rộn ràng Đây
là những yếu tố quyết định tính nhạc ,
một giá trị to lớn của Hát nói , bởi tính chất âm nhạc của nó .
d.
Số câu và từ : Nhờ số lượng từ trong câu linh hoạt , từ 5 đến 8 âm tiết , cho
nên, khi một nhà thơ mới chọn lối thơ
tám chữ , người đọc có cảm giác nhà thơ
ấy muốn tạo cho tác phẩm mình một nét vừa dân tộc, vừa hiện đại, giàu chất thơ và nhạc
. Có thể đó là Xuân Diệu trong bài Vội Vàng .Tuy nhiên,câu “keo” bắt
buộc chỉ được viết 6 âm tiết ( trừ một số trường hợp ngoại lệ, như Bài ca ngất
ngưởng của Nguyễn Công Trứ ) .
2 Nhan đề : nhan đề bài Hát nói cũng giữ một vị trí quan
trọng. Vốn thuộc quy củ thơ trung đại,
thể loại luôn gắn với đề bài . Khi chúng
ta bắt gặp những bài có từ “ ca” thì hiểu đó là một bài Hát Nói, có nội dung
ngợi ca, tự hào về đề tài sẽ nói đến .
“Bài ca ngất ngưởng” là niềm tự hào về thái
độ cống hiến, hưởng thụ hết khả năng và bản năng, theo một triết lý sống tích cực, có ý nghĩa .
II.
ĐỌC
HIỂU :
1.
Ngất ngưởng trong học tập, cống hiến .
. Trong “Bài ca ngất ngưởng”của Nguyễn Công
Trứ, phần Lá đầu có 2 câu :
Vũ trụ nội mạc phi phận sự .
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng
(Trong
cõi trời đất này, không có điều
gì không phải là bổn phận của ta .Vì thế, ta ,ông Hy Văn, có đủ tài năng, trình
độ, đã tự nguyện tham gia ) .Có thể hiểu rộng ra : Ở đời , nam nhi phải biết
sống có trách nhiệm .Do đó, phải biết cống hiến hết khả năng.
Vậy
ngất ngưởng nghĩa là hết mình , trọn vẹn
Vì sao cần sống hết mình,trọn vẹn ? Bởi
đó là quy luật,là trách nhiệm đối với Tổ Quốc của kẻ làm trai .
Hai câu xuyên thưa : Chứng minh cho phần
cắt nghĩa : khi học tập (đỗ thủ khoa),khi ra làm quan( cả mặt chính trị, quân
sự : tham tán, tổng đốc, đại tướng, phủ doãn ) đều hết lòng, hết khả năng .
Đây là
một thái độ cống hiến rất cao cả .
Tác giả không đề cao mục đích vì mưu cầu danh lợi như mọi nho sĩ khác, mà hãy cứ học tốt, ra làm quan giỏi , cống
hiến trọn tấm lòng và năng lực, vì lòng đam mê, vì một điều cao cả hơn: Ở đời ,
nam nhi phải biết sống có trách nhiệm.Lịch sử từng nhận xét “ Bằng cuộc đời của
chính bản thân, ông đã chứng tỏ mình là
người có tài năng, nhiệt huyết trên
nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, từ văn hóa, kinh tế đến quân sự” Giọng
thơ sôi nổi,rộn ràng, tự hào nhưng không có chút tự cao ( ta chú ý lối kể rất bình thản: khi, lúc, có khi… , một sự thay đổi
đơn giản trong cuộc đời một thượng quan nhà Nguyễn )
Trong “ Tây Tiến”, các chàng trai Hà Nội
cũng bày tỏ thái độ cống hiến vì nước
của họ: những
trí thức trẻ hiểu biết, trách nhiệm, trung thành và dũng cảm
2.Ngất ngưởng
trong hưởng thụ :
a. -Trổ giữa : 4 câu
Gồm bốn câu 5-8, trong đó có hai câu
qui định thơ thất ngôn, hoặc ngũ ngôn có nội dung rất dễ hiểu: Sống theo bản năng ở đâu, như thế nào:
đến với thiên nhiên, cất kiếm cung, tâm hồn từ bi thanh thản .
Thơ: Kìa núi nọ phau
phau mây trắng ,
Tay kiếm cung (mà) nên dạng từ bi.
Xuyên mau (mở rộng ý
trong thơ )bản năng đàn ông vốn mê tứ đổ tường ( cờ bạc,trai gái, rượu chè,hút
sách) Gót tiên đeo dửng đỉnh
một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng .
Tóm ý là : Sống tận hưởng theo bản năng là
như thế : chỉ là một trong bốn ( mê … phụ nữ )
b.
Dôi trổ có 4 câu, với chức năng
là Bàn bạc, nhận xét về thơ và xuyên mau
(được mất dương dương người thái thượng,khen chê phơi phới ngọn đông phong…
vướng tuc )
: Sống theo bản năng như vậy có đặc điểm
gì : không vướng tục, không còn lo bận danh lợi, dư luận , đươc mất ,khen chê (được mất … vướng tuc)
Chỉ bấy nhiêu
nhưng cũng đủ cho những người lính,vốn thanh niên trai tráng Hà Nội, thấy bâng
khuâng xao xuyến, nhưng là niềm hạnh phúc thật trong sáng- Trong thời gian này, ông còn được cử
làm Phó đoàn tuyên truyền Lào - Việt.
Có thể những lúc này, nhà
thơ đang vừa là một chiến sĩ, vừa là một
cán bộ, ông hiểu rất rõ mối quan hệ lãnh thổ,nhân dân ,chính quyền
.Núi rừng nối liền hai miền Việt Lào, những con người hai miền sâu đậm với
nhau, người lính là chính quyền, tạo sự gắn bó đoàn kết, đó là sức mạnh để
chiến thắng quân thù .
3.
Triết lý về ngất ngưởng : Trổ xếp : 3 câu (kết luận, rút ra bài học,liên
hệ bản thân )
-dồn : Ta là người đã cống hiến hết
khả năng ,không thua kém những người tài trong sử sách xưa (đúc kết lại toàn
bài )
- xếp
;với vua, dù ta ở vị trí nào,cũng một lòng trung thành (liên hệ bản thân
với cuộc đời)
-Keo : Công hiến ngất ngưởng, tận
hưởng ngất ngưởng (rút ra phương châm sống )
bao
tâm nguyện : Tự do hay là chết, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh , và cụ thể hơn: chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh .
. Để có
thể đọc hiểu tốt một bài thơ thuộc thể hát nói , điều trước tiên ta cần chú ý là kết cấu bài thơ .
Dù mang tính thơ ca ,hát xướng, nhưng nếu chú ý, chúng ta thấy các nhà thơ trung đại luôn có ý thức đưa lối lập luận
chặt chẽ,hệ thống,mạch lạc của văn nghị luận xã hội vào kết cấu bài thơ của mình .Mục đích là để cho
việc truyền tải ý đồ, dù kể một câu chuyện , nêu một quan niệm sống ( như Bài
ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ ) hay
tả cảnh ( như Hương Sơn phong cảnh ca
của Chu Mạnh Trinh ) hoặc châm biếm (
như Trần Tế Xương với bài Chú Mán ),đều được trình bày dễ nhớ ,dễ hiểu, dễ thuyết phục
Câu hỏi : 1.Hát nói là gì ? Hãy nêu cụ thể kết cấu một bài hát nói ? Tại sao cần biết cụ
thể cách kết cấu độc đáo của thể thơ này ?
2. Trong bài “Bài ca ngất ngưởng”của Nguyễn Công Trứ, tác giả đặt ra vấn
đề gì ? Tâm trạng như thế nào ? qua những từ ngữ, biện pháp nghệ thuật nào ?
3. Theo tác giả ,thế nào là cống hiến trọn khả năng và tận hưởng
cảnh hưu nhàn theo bản năng ?Ông có quan niệm gì về lối “ ngất ngưởng theo bản
năng ?”.
4. Phân tích phần “trổ xếp” . Bạn có suy nghĩ gì về lối cống hiến và hưởng thụ “ ngất ngưởng” của
Nguyễn Công Trứ .
No comments:
Post a Comment