Bài 1
CÁCH ĐỌC HIỂU MỘT VĂN BẢN THỂ LOẠI
KÝ SỰ
(THƯỢNG KINH KÝ SỰ )
LÊ HỮU
TRÁC
A . NHỮNG ĐIỀU LIÊN QUAN ĐẾN TÁC GIẢ- TÁC PHẨM
I.KHAÍ NIỆM CHUNG:
1. Định nghĩa :
Ký sự là một
thể loại văn học , thuộc dạng
ký,,thường ghi chép các sự kiện, hay kể lại một câu chuyện trong cuộc sống mà tác giả trực tiếp chứng kiến, hay tham gia . Ký sự đậm màu sắc tự sự, bởi tác giả thường dụng công kể lại sự việc, miêu tả chi tiết một cách cụ thể,
sinh động
, từ đó kín đáo bày tỏ cảm xúc trước những vấn đề mình muốn nói, thái độ của bản thân trước vấn đề đó .
2. Đặc điểm Ký sự
có nhiều điểm giống truyện ngắn
vì có cốt truyện , nhân vật ,tình tiết, được xây dựng bằng các phương thức biểu đạt của truyện :tự sự, miêu tả,biểu
cảm . Nhưng truyện có yếu tố hư cấu
.Còn với ký sự, bắt buộc ba yếu tố
(thời gian ,không gian ,nhân vật )phải
hoàn toàn có địa chỉ cụ thể ttrong cuộc sống .Các chi tiết không được phép sáng tạo, hư cấu .Đó chính là sức thuyết phục và giá trị của
ký sự .
Ký sự
có cốt truyện hoàn chỉnh ,giàu
chất tự sự , thỉnh thoảng pha
yếu tố trữ tình và chính
luận, khi tác giả ký sự muốn dựa
vào ký để nêu một quan điểm ,lập trường (yếu tố chính luận) hay gửi gấm nỗi niềm riêng (yếu tố trữ tình). Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác là một tác phẩm tiêu biểu .
Ký sự hoàn tác khác với tùy bút . Trong tùy
bút, tác giả mượn sự việc có thật để bày tỏ xúc cảm , để thư giãn với những kỹ năng ,tài hoa về ngòi bút của
mình . Còn ký sự chủ yếu kể sự việc, con người, từ đó đề cao hay phê phán nhằm thuyết
phục người xem đồng tình với mình . Các
thủ pháp nghệ thuật chỉ đóng vai trò phụ .
Đọc Thượng
kinh ký sự hay mọi tác phẩm ký sự, chúng ta cần lưu ý ba điều : tác giả ghi
chép câu chuyện gì,của ai,ở đâu, lúc nào ; dùng những phương thức nào, những
thủ pháp nghệ thuật nào để ghi chép ; đồng
thời ông bày tỏ thái độ gì qua câu chuyện , bằng dạng trực tiếp hay kín đáo
II. THƯỢNG KINH KÝ SỰ :
1. Cấu trúc tập ký sự : Thượng Kinh Ký Sự (Ký sự lên kinh
đô) là tập ký sự bằng chữ Hán của nhà y học và nhà văn Lê Hữu Trác (biệt hiệu Hải Thượng
Lãn Ông, có nghĩa: Ông già lười
Hải Thượng). Theo nhà văn Đoàn Minh Tuấn, thì đây là một thiên phóng sự duy nhất
của văn học Việt xưa viết về người thật, việc thật với cách hành văn giản dị,
tinh tế và sinh động. Tập ký sự này được tác giả viết bằng chữ Hán theo thể nhật ký,( việc gì, xảy ra ở đâu,lúc
nào, cảm nhận ra sao ) không chia chương
mục . Bên cạnh đó, mỗi một khung cảnh,
hay một biến cố quan trọng, ông thấy xúc động và trải lòng qua những
vần thơ rất sinh động .Dịch giả Phan Võ đã tạm đặt những phân đoạn sau: Giã nhà lên kinh , Vào Trịnh phủ, Nhớ quê
nhà , Làm thuốc và làm thơ , Đi lại với các công khanh , Tình cờ gặp người
yêu cũ , Ngâm thơ, thưởng nguyệt, Về
thăm cố hương( Hải Dương-quê nội) , Vào phủ chúa chữa bệnh , Trở về quê cũ( Hà
Tĩnh )
2. Nội dung tập ký sự :Tập ký sự này mở đầu
lúc Lê
Hữu Trác đang sống ở quê mẹ là Hương Sơn (Hà Tĩnh), bỗng có chỉ triệu ra kinh chữa bệnh
cho chúa Trịnh Sâm và thế tử Trịnh Cán. Khi ấy, ông đã 62 tuổi. Đó là một
ngày đầu tháng giêng âm lịch năm Nhâm Dần , niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43 ( năm
1781) Trên từng chặng đường, tác giả vừa
ghi chép lại những con người ông gặp,mô tả phong cảnh những nơi ông qua,
vừa bộc lộ tâm trạng của mình bằng ngôn ngữ đời thường, đặc biệt bằng
những bài thơ Đường luật giàu hình ảnh
và cảm xúc .Chuyến đi từ Hương Sơn ( nay thuộc Hà Tĩnh )đến kinh đô chiếm gần nửa
tháng, do mùa xuân, mưa gió lầy lội ,đường
đi qua truông đèo sông suối, dù có hai mươi người lính đi cùng ( do quan phủ cử )Tự đáy lòng, tác giả ra đi với tâm trạng miễn cưỡng .Ông
viết trong tập ký sự : Mình về núi Hương Sơn nuôi mẹ,đọc sách, lấy việc giữ
mình ,cứu giúp người là đắc sách, xem công danh là vật bỏ .Nay không ngờ bị hư
danh làm lụy .Nguyên do bốn năm trước, quan Chánh Đường Hoàng Đình Bảo (
người theo lệnh chúa Trịnh Sâm triệu ông lên kinh ), tức Quận Huy , từng làm
quan ở Nghệ An, được tác giả chữa lành bệnh , đã đối
đãi với vị lương y này như khách
quý . Quận Huy có công rất lớn với triều
đình, đánh giặc biển, được phái về triều
,được phong tước tam công, vua chúa rất tin dùng . Bây giờ người thầy thuốc xưa được quan để mắt đến, mà lòng buồn rầu . Nhưng ông
chợt nghĩ: ông có viết cuốn Lãn ông Tâm lĩnh (sách thuốc của ông già lười )
, muốn công bố cho mọi người cùng biết, có thể đây là cơ hội chăng . Chọn lối “ dĩ bất biến ứng vạn biến “ ấy đã an
ủi ông . Trên đường đi có gặp một vị sư thầy giỏi bói toán . Nhà sư tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy một trí thức chân chính lại rất tỉnh táo, rất lười
, trước danh lợi. Quẻ bói cho thấy “ cá gặp nước,giao long gặp mưa” là điềm lành .Lại thêm quẻ “ chủ khách vui vầy,
trên dưới hòa hợp” thì chưa thể đoán được ngày về. Biết là mệnh trời, là người
tinh thông lý dịch , tác giả thấy an lòng .
Đến kinh,một ngày đầu tháng hai âm lịch năm
đó , tác giả được lệnh bắt mạch cho Thế
tử . Theo ông, nguyên nhân vị chúa con này,
Trịnh Cán mới sáu tuổi, ốm bệnh dai dẳng
là do “ ăn quá no, mặc quá ấm”.Có rất nhiều ngự y cùng với quan
Chánh đường đã thăm bệnh cho Thế tử, cho nên toa thuốc của tác giả không
được đem dùng . Đến đây, sự biệt đãi của
quan lại,tôi tớ phủ chúa đã khiến tác giả
lo sợ bị vướng vào vòng công danh, nên tìm cách cáo bệnh mỗi khi các quan vời đến . Quận Huy tỏ
ra hiểu biết, bảo rằng chỉ lấy cớ tuổi già thì mới được thoát khỏi . Một hậu bối
của quận Huy là quận hầu, nhân vật được tác giả ngưỡng mộ, ở sự khiêm nhường và
hiểu biết,dù tuổi chỉ là bậc con cháu
ông, thì đùa : cụ chỉ thích uống nước Hương Sơn, bôi thoa mây Hương Sơn thì vui thôi .
Đúng là như thế .Tác giả từ chối trọ
trong phủ quan Chánh Đường,từ chối nhận bổng lộc, mà tìm cách chữa bệnh cho
quan lại, dân cư trong kinh để có chi phí trang trải cho bản thân và mấy người
lính hầu, lại còn có tiền giúp một người đồng hương làm giáo thụ nhưng khi về thăm quê lại rất túng bấn .Có tài bốc thuốc
và làm thơ, lại nhiều người biết đến vì ông vốn là con quan , nên tác giả có
nhiều bạn bè,các nho sĩ, quan lại và những người thân quen xưa. Ông tình cờ gặp
người yêu cũ, đã hứa hôn với nhau, nhưng duyên phận không đến.Bà bây giờ là một
ni cô trong chùa , già nua, ốm bệnh. Khi ông đề nghị đón bà về tu trong am do ông lập trong Hương Sơn, thì bà từ chối,chỉ
đề nghị ông mua cho một cỗ quan tài từ xứ
Nghệ, vì gỗ trong đó tốt.Thật não lòng !
Nhưng cảm động thay trước tấm chân tình cao đẹp của tác giả . Ông còn có dịp về thăm quê nội, nơi cho ông bút danh
Hải Thượng . Sau đó, ông được triệu vào cung chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm và các vương hầu trong kinh, rất được
nể trọng. Còn đối với Thế tử ?
Nhưng
đến ngày 11 tháng 9 âm lịch, Trịnh Sâm qua đời .Thế tử sáu tuổi lên ngôi ra thị triều, nhưng mắc bệnh sợ
gió,vừa ra ngoài là cảm .Dùng thuốc quý, nhưng lại sinh thêm bệnh suyễn nặng .
Các bệnh cũ lại phát . Tác giả bèn xưng bệnh,không vào chầu. Triều đình tiến cử một thầy lang mới , tác giả vui mừng,
nhủ thầm “mình phải biết mà đi trước mới được ”Bèn tìm gặp quan Chánh Đường, lấy cớ thư nhà giục
về vì có người bệnh nguy cấp đã
lâu,nhưng đến nay mới dám thưa .Có lệnh
phải thông qua các quan thụ mạng nữa . Người cho về,người không . Tác giả nhủ
thầm : số người cho đã quá nửa, thôi ta cứ về . Vào phủ sụp lạy vua, ông vua
con khen chè ngọt,thích uống, nhưng tác giả buồn khổ, chỉ vì cứ dùng mãi thứ thuốc khổ
hàn, cho nên mới tai hại như thế này .Từ biệt Chánh đường , được cấp 50 quan tiền, nhưng tác giả chỉ nhận
10 quan làm lộ phí .Chánh đường cầm tay vị lương y già. Hai người nhìn nhau, nước
mắt ràn rụa.Quan Chánh đường thở dài : Tôi với cụ bao giờ gặp lại nhau? Ngày
mùng 2 tháng 11 năm ấy , ông về đến nhà .
Rồi nghe tin Quan Chánh đường bị giết .
Ô ng đã hồi hương trong tâm trạng thanh thản,
dù mục đích được vời không thành.Ông đã vào và bước ra khỏi phủ chúa Trịnh như
thế đấy, bởi ông là người đã khiến cho một
nhà sư kinh ngạc : một trí thức chân
chính lại rất tỉnh táo, rất lười , trước danh lợi.
3
Tìm hiểu về tác giả :Lê Hữu Trác là con người như thế nào ? Ông học thuốc từ đâu ? Vì sao ông lại khiếp sợ
công danh đến thế ?
Lê Hữu Trác 1720 –
1791). Là người tinh thông y học, dịch lý, văn chương, và ông được biết đến nhiều hơn với vai trò lang y. Ông sinh
trưởng trong suốt các triều chúa
Trịnh : Trịnh Giang ( trị vì vào năm 1729-1740) Trịnh Doanh ( 1740-1767) Trịnh Sâm
( 1767-1782) . Dòng tộc ông vốn có truyền thống khoa bảng ( khi ông lên kinh, bắt mạch cho Trịnh Sâm, vị chúa này nhận xét : trông giống thầy Liêu lắm. Đó là chú ruột của ông )Thân sinh đỗ Tiến sĩ, quan triều Lê . Cha mất , Lê Hữu Trác độ 20 tuổi
gia nhập quân đội lấy đường phò vua để
tiến thân. Nhưng bấy giờ các phong trào
nông dân nổi dậy khắp nơi, xã hội thối nát, chiến tranh tàn phá , bao đau
thương, làm ông chán nản Năm 1746, người anh ở Hương Sơn mất, ông viện cớ việc nhà, xin ra khỏi quân đội, thực sự
"bẻ tên cởi giáp”.Ông mới 26 tuổi .
Lê Hữu Trác bị bệnh từ
lúc ở trong quân ngũ Trong hơn một năm
chữa bệnh, ông thường đọc "Phùng thị cẩm nang" và hiểu được chỗ sâu
xa của sách thuốc, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người
đời, nên ông quyết chí học thuốc. Ông đặt tên hiệu "Hải Thượng Lãn
ông". Hải Thượng (tỉnh Hải Dương và
phủ Thượng Hồng quê cha, xã Bầu Thượng quê mẹ) "Lãn ông" (ông lười) , ngụ ý lười biếng, chán ghét công
danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do
nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó.
Từ năm 1756-1766, ở Hương Sơn "từ khước sự giao du, đóng
cửa để đọc sách" (Tựa "Tâm lĩnh"), ông vừa học tập và chữa bệnh.
Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu( Nghệ Tĩnh ) Ông được
biết đến nhiều với vai trò một lang y.Ông
lại là người yêu văn chương, tinh thông dịch lý
( chiêm tinh ), nắm được qui luật thay đổi
của vũ trụ, số mệnh con người. Hẳn đây cũng là một nguyên do khiến ông
không mặn mà với việc phò tá các triều chúa Trịnh trong cuộc đời mình, mà phó thác tương lai mình cho dân lành và việc nghiên cứu y học Ông biết
một qui luật hiển nhiên : hổ rút về hang khi bị thương, nhịn
ăn,chữa trị. Nếu không vết thương sẽ hủy
diệt nó( nếu cứ săn mồi, lờ đi vết
thương). Đời là một cuộc chiến. Sống ẩn thân là cách giữ mình, lấy lại sự cân bằng, phong độ trước khi bước vào
một cuộc chiến mới .
4 Vài nét về Phủ chúa Trịnh: Nơi đây đã từng là một
công trình kiến trúc đồ sộ vào bậc nhất thời Lê trung hưng. Được xây một thế
kỷ rưỡi (1592 - 1749), Phủ chúa Trịnh là những tòa thành bằng gạch, bao bọc nhiều cung điện,. Ngoài ra, các
chúa còn cho xây nhiều cung điện ngoài phủ. Thời kỳ Lê Trung hưng, còn được gọi
là thời Lê-Trịnh,trong suốt thời phong kiến Việt Nam, thời kỳ
này là thời kỳ duy nhất vừa có vua lại vừa có chúa. Chúa Trịnh nắm thực quyền, còn vua Lê chỉ là bù
nhìn. (phủ Chúa là nơi giải quyết mọi việc lớn nhỏ trong nước, triều đình vua Lê
chỉ có danh mà không có thực. Tại triều đình Thăng Long, các chúa Trịnh
ngày càng lấn át, ức chế vua Lê) . Năm 1787, khi họ Trịnh thất bại trong việc
khôi phục lại địa vị, Trịnh Bồng chạy khỏi kinh
thành, vua Lê Chiêu Thống ngầm cho người đốt
phủ chúa đi. Đám cháy lan khắp hai phần ba kinh
thành và cháy trong mười ngày liền làm
mất đi một quần thể kiến trúc đẹp của Thăng Long - Hà Nội.
Anh em Tây Sơn là những lãnh đạo
của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội
chiến Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa hai tập đoàn
phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía nam, lật đổ
hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê
5. Các chúa
Trịnh :Phủ Chúa Trịnh là cung điện
được các chúa Trịnh cho xây dựng bên cạnh hoàng thành nhà Lê để tổ chức quyền
thống trị muôn dân,từ thế kỷ . Vậy chúa Trịnh gồm những vị nào ?
Triều Lê thịnh trị
sau cuộc kháng chiến chống quân Minh (
1427 ), đỉnh cao là thời vua Lê Thánh Tông ( tại ngôi 1460- 1497).Nhưng đến1527,
Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lập nhà Mạc ở Cao Bằng Năm 1533,
Nguyễn Kim nổi
dậy chống lại nhà Mạc, khôi phục nhà Lê. Ông chính là tộc trưởng
triều Nguyễn ( 1802-1945 )Người mở đầu sự nghiệp của họ Trịnh là Trịnh Kiểm. Ông
là tướng dưới quyền, cưới Ngọc Bảo(con
gái Nguyễn Kim ). Sau khi Nguyễn
Kim mất( 1545 ) Trịnh Kiểm lên cầm quyền, nắm toàn thể quân đội.Để củng cố quyền
lực, ông sai giết con cả của Kim
là Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng ,con thứ , vào trấn giữ vùng phía Nam đèo Ngang . Từ
đó Trịnh Kiểm nắm toàn bộ quyền hành của nhà Lê, xây dựng sự nghiệp cho họ Trịnh. Các vua Lê sau có ý định
chống lại đều bị bức tử. Với khẩu hiệu
"Phù Lê diệt Mạc" thanh thế họ
Trịnh ngày một lớn.
Họ Trịnh tiến hành
xây Phủ chúa ở Thăng Long để
đánh dấu quyền lực (1592). Năm sau, Trịnh Tùng rước vua Lê Thế Tông trở
lại Thăng Long Năm 1677, họ Mạc chấm dứt
quyền hành. Nhiều chúa Trịnh đều là những chúa giỏi cai trị. Nhờ thế mà Bắc Hà yên ổn thịnh trị Các chúa Trịnh cầm quyền 241 năm (1545 – 1786) tổng cộng 241 năm, qua
11 đời . Nếu nhìn nhận khách quan, chỉ trừ Trịnh Giang,
các chúa đều là những vị chúa tài ba, giữ cho xã hội Đại Việt ổn định
trong gần 2 thế kỷ . Họ giỏi võ công hay chữ. Nhiều chúa sống rất thọ (từ 68 đến 81 tuổi), hẳn phải là những
sống người nghiêm túc và điều độ. Các thành tựu của nhà Lê Trung Hưng thực
chất là thành tựu do các chúa Trịnh.
Tuy nhiên trong thời
phong kiến việc lấn át quyền lực của nhà vua làm cho các chúa Trịnh bị mang tiếng
mãi cùng với lịch sử. Họ Trịnh suy tàn từ thời Trịnh Giang( 1729-1740 ), qua Trịnh
Sâm (1767- 1782) Trịnh Giang lên
ngôi ,trác táng, sa đọa,bệnh hoạn , sửa
đổi luật lệ, giết chết nhiều quan giỏi
,giết vua này lập vua nọ , gian dâm , sửa
sang phép tắc mô hình trong cung một cách bừa bãi, không quyết đoán, đố kị người
hiền , tư thông với cung nữ của cha, xây dựng nhiều chùa chiền làm hao tổn sức
dân, khiến đất nước đặt thuế khóa nặng nề.
Nông dân liên tiếp nổi dậy khởi nghĩa. Trịnh Sâm đem quân đánh dẹp .
Nhưng rồi các chúa đã khiến đất nước kiệt quệ và điều gì đến đã phải đến :họ Trịnh
trượt dốc nhanh chóng rồi bị Tây Sơn đánh đổ một cách dễ
dàng .
6. Các chúa cuối đời: Trịnh Sâm mất năm 1782, nhường ngôi cho con là Trịnh
Cán mới 6 tuổi ,nhưng chưa được hai tháng thì bị truất .Theo sách Hoàng Lê nhất
thống chí , thì Trịnh Sâm có con trai lớn là Trịnh Tông ,nhưng
không được nhường ngôi .
Trong phủ bấy giờ Hoàng Đình Bảo (1743-1782) tước Huy quận công (nên còn được gọi là Quận Huy, Quan Chánh đường thời Lê-Trịnh) Năm 1778, ông được Trịnh Sâm giao cho coi việc phủ chúa và lĩnh chức
trấn thủ Sơn Nam ( Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình
) .Đặng Thị Huệ (một phi tần của
chúa Trịnh Sâm, một giai nhân bậc nhất của phủ chúa và cũng rất
được chúa Trịnh Sâm sủng ái. Theo Từ
điển Lịch sử nhân vật Việt Nam, thì bà là một người đã gây ra nhiều tai ách
trong phủ chúa Trịnh và triều đình Hậu Lê, ảnh hưởng tiêu cực
đến tình hình chính trị - xã hội Đàng Ngoài ) ..Quê ở huyện Phù Đổng, ( huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
ngày nay ). Thị Huệ làm nghề hái chè mưu sinh, nổi tiếng có sắc đẹp nhất vùng. Sau đó, Thị Huệ
nhận vào làm gia nhân của phủ . Từ đó bà
ngày càng được Trịnh Sâm yêu quý, phong làm chính cung của mình, gọi là Tuyên Phi, dân gian gọi là Bà
Chúa Chè. Năm 1777, Đặng Thị
Huệ sinh Trịnh Cán nên được lập làm Tuyên Phi.
Biết chúa rất sủng ái mình, có Quận Huy hậu thuẫn, Đặng Thị Huệ ngày đêm mưu
tính việc giành lấy ngôi vị Thế tử cho con trai. Nhưng Trịnh Cán là một thế tử ốm
bệnh . Năm 1782
Trịnh Tông cùng kiêu binh nổi loạn, Trịnh Cán quá khiếp sợ và chết. Người
mẹ điên loạn rồi tự vẫn . Quận Huy bị kiêu binh sát hại dã man, dinh cơ bị đập
phá tan nát .
B. ĐỌC HIỂU ĐOẠN TRÍCH : Thiên ký sự hoàn thành vào tháng 11 âm lịch năm sau đó
( tác giả ghi cụ thể là “năm thứ 44, hoàng triều Cảnh Hưng” )
I. CÁC
ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐOẠN TRÍCH
1. Vị trí của
đoạn : Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”được xem đoạn trọng tâm của thiên ký sự một lần tác giả
thượng kinh
2.
Kết cấu của đoạn : Ba yếu tố trong đoạn ký sự này gồm : Cảnh vật,
sự sinh hoạt trong phủ chúa ; khuôn mặt
quan lại,nhà vua và cuối cùng là bóng dáng tác giả. 3 . Phương pháp
sáng tác :Vận dụng thể ký sự (ghi chép chính xác,tỉ mỉ những điều mắt thấy tai
nghe , không nêu trực tiếp tâm trạng mình ) và phương pháp sáng tác chịu sự chi
phối trực tiếp của ý thức hệ phong kiến,
đó là phương pháp lấy mẫu người quân tử ,liệt nữ, trượng phu làm trung tâm .Những
con người này rất coi trọng đạo đức,lễ giáo phong kiến , xem nhẹ tình cảm ,quyền
lợi riêng tư, tận tụy phục vụ nhà nước phong kiến . Vị thầy thuốc kiêm nhà văn
Lê Hữu Trác cùng Nguyễn Dữ đã chọn
phương pháp này .Nhân vật trung tâm chính là hình tượng tác giả .Ta thấy và hiểu
những gì ?
II. ĐỌC HIỂU :
1 .Đoạn chuẩn bị gặp thế tử ,người bệnh của vị
thầy thuốc này (Mồng …nào)
-Ta thấy ngòi bút
ghi chép đi theo trình tự thời gian (việc trước, việc sau ) không gian (từ
ngoài vào trong )và thốt lên một ghi nhận độc đáo : Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người
thường .Vì sao như thế ?Vì có cảnh khu vườn thôi kia mà .Cộng với quân
lính, nhân dân có việc quan tìm đến .
. khu vườn nằm sau
phủ,phải qua mấy lần cửa, theo đường bên trái .Cảnh diễm lệ của khu vườn tràn đầy
kỳ hoa dị thảo đập vào tận mọi giác quan
: cây cối um tùm ,danh hoa đua thắm khắp nơi (mắt ) chim hót ríu rít (tai) mùi hương thoang thoảng ( mũi ) gió đưa nhẹ (
da ) Vậy cảm giác ở lưỡi miệng không thể khác hơn sự ngọt ngào .Đây là cảnh thiên đàng, dành
cho tiên nữ, ngọc hoàng ,nên giữa trần gian mà đẹp đẽ như thế khác nào chốn bồng
lai . Khu vườn ám chỉ sự sang trọng, xa hoa của Phủ .
. quan lính,quan lại
,nhân dân đến hầu vua quan : truyền báo rộn ràng,qua lại như mắc củi .Thật là
đông đúc,ồn ào không kể xiết .Tất cả toát lên quyền lực bao trùm đất nước của
phủ Chúa, dù vị trí đặt bên cạnh kinh đô
vua Lê
.Tác giả :Từng là
con quan ,sinh trưởng chốn phồn hoa , mọi chỗ trong cấm thành từng rõ hết .Vậy
mà vào đây ông ngỡ ngàng , nghĩ mình quê mùa ,như Đào Tiềm xưa lạc xứ tiên .
Chỉ qua một đoạn
ký sự ngắn, ta thấy hiện lên một nhà nho chân chất , không yêu thích lợi (vườn
hoa ) danh ( quan lại ) mà tự nhủ mình là kẻ quê mùa .Vì ông coi trọng những điều
ông chỉ tìm được ở Hương sơn ,nơi quyền lợi riêng tư để qua một bên ,con người
coi trọng việc phục vụ nhân dân hơn tất cả .Sử sách từng ghi Lê Hữu Trác đã là một võ quan nhà chúa Trịnh,nhưng
ông về quê mẹ Hương Sơn (Hà tĩnh) học
thuốc, trị bệnh cho dân .Đến kinh đô chỉ là sự miễn cưỡng .
Đọc tiểu sử,chúng ta biết tác giả vốn là một võ quan , do tìm cách tự chữa
bệnh của mình mà học thuốc, hành nghề
mưu sinh , nhưng thái độ sống đầy trách nhiệm của một thầy thuốc có tâm hồn văn
chương, ông bỗng khát khao ghi chép.Thế là những trang văn xuất hiện . Đoạn văn
tả cảnh, tả người trong phủ rất chân thực,sinh động, nhờ cách quan sát tinh tế,
tấm lòng cảm nhận cuộc sống,sinh hoạt trong phủ kín đáo tỏ bày .
b.Đoạn gặp gỡ quan lại trong phủ. Có các vị lương y của 6 cung,2 viện ,ngày đêm chầu chực ở phòng
“trà”( thuốc ) để sẵn sàng phục vụ một vị thế tử sáu tuổi(đi.. đại gia )
. Không khí nhà
đại gia :Cảnh điếm có quân lính túc
trực canh gác ngày đêm .Dù chỉ là điếm canh,nhưng lối xây dựng độc đáo, cầu kỳ
(cột và bao lơn lượn vòng) đặt bên hồ, có cây cối, đá cảnh lạ lùng,đẹp đẽ - Đi
sâu vào là nhà đại đường ,quyển bồng , lưu giũ kiệu , sập ,võng , bàn ghế ,những
phương tiện đi lại,nghỉ ngơi cho các
chúa. Ta chú ý : cái nhà thật là cao và rộng; đồ đạc là màu đỏ đẹp đẽ (võng điều),nghi
trượng,bàn ghế đều sơn son ,thếp vàng .Đi tiếp, đến gác tía ,nơi trao đuổi việc thăm khám cho thế tử .Một cái lầu
cao rộng,sơn son thếp vàng .Bữa cơm sáng
chờ đến giờ khám ở điếm Hậu mã, có mâm vàng,chén bạc ,của ngon vật lạ .Tất cả nhằm hướng về sự xa
hoa phù phiếm ở phủ . Bây giờ tôi mới biết cái phong vị của nhà đại
gia
.
c.Đoạn bắt mạch chẩn bệnh cho Thế tử (ăn xong … hết)Cha
ông mình đời đời chịu ơn của nước ,ta phải dốc cả lòng thành , để nối tiếp lòng
trung của cha ông .
.
.Người trong phủ có Thế tử ngồi sập ,Chúa rời ghế rồng .Cung nhân
xúm xít, đứng hầu vây quanh cha con .Mặt phấn ,áo đỏ .Quyền lực của kẻ được hầu
hạ thật lớn .Thế tử ở trong
chốn màn che trướng phủ , ăn quá no ,mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi
Quan Chánh đường lại lo sợ uy
tín lung lay khi nghĩ về Thế tử ?
.Tác giả phải đấu tranh tư tưởng khá lâu,vì các
thầy lang và quan Chánh đường có hướng trị bệnh ngược với tác giả .Với họ, phải
đuổi bệnh (công ) rồi mới bổ .Nhưng với vị lương y này, bệnh đã lâu, nếu công
thì người bệnh càng suy yếu, buộc lòng phải bổ .Tuy nhiên ông lo sợ vòng danh lợi
ràng buộc .Cuối cùng, vì trách nhiệm một người con với tiên tổ,từng hưởng bổng
lộc triều đình, nay cần trả ơn
C .KẾT LUẬN :
1. Cả một đoạn ký sự dài, ghi chép tỉ mỉ những điều gây ấn
tượng về giác quan và nội tâm, ta thấy tác giả kín đáo phê phán sự chuyên quyền của phủ chúa, chú trọng địa vị, tiền của
, xem sự phú quí và vàng ngọc là giá trị
cao cả nhất .
Có ba phần, tác giả ghi lại nơi ở (vườn hoa, các lầu ,trạm , chốn hậu đều xa hoa, lộng lẫy) cái ăn ( cao lương mỹ
vị nhất trên đời ), là bề ngoài của một phủ chúa quyền thế, cao sang , nhưng nhân vật chính ( thế tử tuổi nhi đồng) lại bị một chứng bệnh về máu khó chữa, do ăn quá no (cao sang)mặc
quá ấm (quyền thế )danh y không có kinh nghiệm và lương tâm ,bệnh phải bổ mà cứ
lo công .
Kết quả của quá trình trị bệnh này như thế nào
, chúng ta
đã biết .Theo họ, bậc thánh đế cao trọng như mặt trời , lại chuẩn toa thuốc do một ông cụ nhà quê kê chỉ lèo tèo là bạch
truật (một loại rễ cây)thục địa ( đậu đen và hà thủ ô cô đặc ) can khương (gừng
) ngũ vị (năm vị ,ngọt chua, đắng, cay mặn). Hơn nữa, nếu tác giả trị được bệnh
cho cha con Trịnh Sâm, thì các ngự y trong triều sẽ không được khen thưởng . Phương pháp chữa
trị của họ, như Lê Hữu Trác gay gắt phê phán ở những trang cuối tập ký sự: Phàm bệnh không thực thì hư ,thuốc chữa bệnh
không công thì bổ . Một năm nay cứ công phạt
mãi mà không bớt ,thì bệnh không thực mà hư, phải bổ chứ . Công không xong,
bổ không làm ,thì chữa bệnh bằng cách nào ? Làm thuốc thì phải nghĩ đến việc cứu
người chứ . Cái lòng trung của kẻ làm tôi trong nghề thuốc ở đâu ?
Nhưng trước những lời cao quý ấy, các thầy
lang chỉ cười lạt . Với tác giả , họ quen nịnh hót vua quan, buộc cấp dưới phải
tôn kính, nên khinh khi tất cả . Thế tử bị bệnh về máu huyết , khi tác giả mới
chẩn bệnh vào đầu xuân, nom khỏe mạnh, mạnh đập đều . Nay qua đông rồi, thì bụng to,da bóp, gân xanh, rốn lồi, hơi thở
thoi thóp, mạch yếu . Vị lương y xót xa. Khi quan chánh đường hỏi thầm, cụ bảo
: Tinh thần suy liệt lắm, không qua được . Chánh đường nằm vật ra sập. Ông
đã được chúa Trịnh Sâm xem như kẻ tâm
phúc, giao phó sinh mạng con trai cho
ông, nhưng bây giờ ...Nguyên nhân bởi chính tác giả nhận ra : triều đình coi trọng đồng tiền ( khinh chê
thuốc rẻ tiền) lang y thiếu trách
nhiệm. Cha mất ,con lên ngôi, nhưng mới
ra thị triều đã ốm nặng . Rồi
kiêu binh nổi loạn, giành ngôi báu cho Trịnh Tông , cả nhà
quan Chánh đường bị hại, Thế tử khiếp sợ và qua đời . Số phận con người thật mong
manh,nhỏ bé quá , dù có là bậc thánh đế .
,
2 .Về tập Thượng kinh ký sự , nhà phê
bình Nguyễn Lộc đánh giá :Qua tập truyện (có
xen lẫn những bài thơ), có thể thấy Lê Hữu
Trác là một con người nhân ái, thanh cao, một thầy thuốc xuất sắc, và là một
nhà văn giàu cảm xúc...Ở những trang miêu tả cuộc sống trong phủ chúa, ông có vẻ
không phê phán một cái gì cả, nhưng những điều được ông nói đến một cách chân
xác, tinh tế; tự nó lại có ý nghĩa phê phán sâu sắc
Hình ảnh những cung điện kiêu sa cùng những
con người nhiều quyền thế ở trong đó, "đã gây cho người đọc cái cảm giác nặng
nề, khó chịu, đến nỗi muốn thét to lên cho nó vỡ tan đi"...
Và tác giả như muốn
tổng kết lịch sử khi viết: "Than ôi! Giàu sang như đám mây bay. Đền vũ tạ,
thú ca lâu phút chốc thành nơi hoang phế".[2]
CÂU HỎI
1. Tóm tắt nội dung bộ ký sự “ Thượng
kinh ký sư” : tác giả lên kinh đô vào
năm nào, vì lý do gì . Ở đây, ông đã làm
gì, gặp ai,tâm trạng như thế nào ?
2. Đặc điểm thể ký sự ( hình thức , nội dung )
3. Nêu thân thế,s ự nghiệp, phong cách
sống của tác giả ?
4. Trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, tác giả
ghi chép theo trình tự nào? Mỗi giai đoạn như thế có ba nội dung (cảnh vật trong phủ, những con người
trong phủ, công việc và th ái độ của tác giả … được ghi chép như thế nào ?)
5. Nội dung tư tưởng của đoạn ký sự này ?
No comments:
Post a Comment