( Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu )
I.
TÌM HIỂU CHUNG :
1
Thể loại : Hầu trời là một bài thơ
được viết theo thể thất ngôn trường thiên, thuộc thể thơ cổ
phong .
So với thơ Đường ( thơ luật )
thơ cổ phong ( tức là thơ được sáng tác trong và sau đời Đường ) không theo
niêm luật chặt chẽ như thơ đời Đường, mà phóng túng hơn, ít bị trói buộc trong
niêm luật, vần, câu chữ . Những khắt khe đòi hỏi về đối, luật thơ, nhạc điệu,
nhịp điệu … không tập trung gò bó như
thơ Đường .
Về
nội dung, thơ thất ngôn trường thiên là
những bài thơ bảy chữ, số câu khá nhiều, nghiêng về trần thuật ( tự sự-kể ) hoặc bày tỏ cảm xúc
liên tục trước một đề tài không dứt .
Tuy nhiên, bố cục cũng cần có cấu trúc
cụ thể, mạch lạc, hợp lý
2. Hoàn cảnh ra đời : Hầu
trời là một tác phẩm của Tản Đà , trích từ tập thơ Còn chơi (khoảng
1921-22) , lúc nhà thơ ngoài ba mươi , độ tuổi “tam thập nhi lập”, có ít nhiều từng
trải trong cuộc đời. Bài thơ đã đúc kết khát khao, những thành công và chưa như
ý nguyện về công danh, sự nghiệp, cũng thể hiện một khía cạnh “cái tôi”khi tác
giả được chào đón vào trong đội ngũ những nhà thơ của phong trào Thơ mới.
3. Đặc điểm
về nội dung : Mới đọc, ta thấy tác giả đang kể
lại một câu
chuyện đậm màu sắc tưởng tượng : trong một đêm không ngủ , tác giả được vời lên tiên, đọc thơ văn cho Trời và các vị chư tiên cõi bồng lai nghe .Các tiên đồng ngọc nữ đã tranh nhau đặt hàng . Hai bên (Trời và tác giả )tâm sự , ủi an ,
động viên, tin tưởng nhau .Sau buổi hội ngộ ý nghĩa đó, tác giả được Trời cho
xe đưa về trần gian .
Rõ ràng, truyện
được đặt vào trong một bố cục cụ thể .
Phần mở bài,với một khổ duy nhất , tác giả nêu lên niềm hạnh phúc lớn lao vô bờ của mình giữa tất cả những câu ở đoạn
thơ đầu tiên , một cảm xúc hiếm
thấy trong cuộc đời lẫn văn chương của mọi con người trần gian .Cả con tim (hồn)khối óc (phách)thể xác (thân
thể )đều đón nhận nguồn cảm xúc đạt ở mức cao nhất - sướng lạ lùng ,sướng đến
độ cứ ngỡ là mơ (chẳng biết có hay không ). Niềm vui sướng tuyệt đỉnh này rất
thật, không kỳ lạ (chẳng hoảng hốt)không phải do tưởng tượng (không mơ mòng ),bởi
vì: thật được lên tiên. Năm từ “thật, có” , đi liền với ba từ đối lập “không , chẳng ” càng khẳng định
rằng chuyện tác giả được lên tiên là có thật, không hề bịa chút nào , không hề
một mảy may tưởng tượng .
.Đấy là cách dẫn dắt một tác phẩm tự sự tiêu biểu . Ta nhớ thời điểm
1921, nhiều tác giả văn học còn sử dụng
chữ Hán , Nôm để sáng tác, và hầu hết
những đứa con tinh thần của họ là thơ, hoặc nghị luận xã hội , thì Tản
Đà đã vận dụng chữ Quốc ngữ một cách thông thạo, kể một câu chuyện tự sự khá
hoàn chỉnh,mà ta
đang tiếp cận đó là tài năng tuyệt vời của ông
.
Câu chuyện cũng bao gồm
năm bước như mọi truyện ngắn khác .Trong
thân bài Phần đầu, tác giả giới thiệu thời gian, không gian và bản thân, nhân vật chính . Tác giả kể cụ
thể thời gian, không gian và lý do được đón lên trời . Canh ba là khoảng thời điểm từ
23 giờ khuya đến một giờ sáng hôm sau, mốc nửa đêm , giờ tý ,thời khắc
thiêng liêng, trời đất giao hòa . Có lẽ bóng tối là thời điểm và bối cảnh cho ông nhiều nguồn
cảm hứng sáng tạo nhất .Nhiều giai thoại
cho rằng Tản Đà có thói quen viết lách, làm việc vào giờ này, còn ban ngày ông
dành để ngủ , uống rượu và tiếp đón khách khứa . Nhiều người còn cho rằng
thói quen này là một khía cạnh trong nhân cách
Tản Đà .
. Hôm nay ông không viết mà ngâm . Cảm
hứng này bắt nguồn từ cảnh ngộ “nằm một mình, ngọn đèn xanh làm bạn đối ẩm
với ấm nước nóng ”Không gian hẹp là ngọn đèn xanh trong nhà và
không gian rộng là khoảng sân , bầu trời đầy trăng . Những không gian quen
thuộc , thân thương hằng ngày của tác giả , chỉ có ở trần gian .Không gian làm
việc, cũng là không gian giao du, không những với bạn bè, mà cả trời .Giọng
ngâm nga vang vọng đất trời .
Ở phần giới thiệu này, ta có thể hiểu được thể loại nhỏ trong một bài thất
ngôn trường thiên dài: một truyện ngắn. Không gian hẹp ( khoảng sân, bầu trời )
thời gian ngắn ( một đêm ) nhân vật ít ( duy nhất tác giả là nhân vật chính )
Phần thắt nút xảy ra khi ra sân dạo chơi, chợt có hai thiếu nữ xuất hiện . Họ vời
tác giả lên trời đọc thơ , vì cái tội tiếng ngâm vang quá, , khiến vị Ngọc hoàng chú ý
, từ việc mất ngủ, mắng, và hẳn rồi thấy hay, nên cho vời .
. Thắt nút trong truyện ngắn rất quan trọng . Đây là một biến cố cơ bản
nhất của truyện, đặt nhân vật chính vào tình huống độc đáo, và sẽ được đẩy dần
lên đỉnh điểm . Trời bỗng gần gũi, như một ông già nóng nảy, và thân thiện , còn tác giả , gã nhà thơ
trần gian tuổi tam thập , vừa sung sướng ngỡ ngàng (ước mãi, giờ mới được), có
chút vờ miễn cưỡng .Đoạn thơ bốn khổ tứ
tuyệt chứa lối văn xuôi tự sự,kể lể, tả
, trừ
vần điệu , và cấu trúc mỗi câu bảy chữ . Tài năng của tác giả chứa đựng trong các kể bằng thơ, ngôn ngữ cố
tình không trau chuốt, như muốn dùng
giọng bông phèn , khẩu ngữ ,tạo tính trào phúng của tác phẩm ,bắt đầu từ đây .
Ba khổ chứa phần Thắt nút,(chơi
văn.. phải lên ) dựng lại một biến cố quan trọng nhất
của truyện ngắn, gồm đầy đủ ba yếu tố của một đoạ tự sự : kể
(ra sân, đi tung tăng dưới sân, lời mời
của tiên nữ)tả (tiên nữ cười mủm mỉm, nụ cười như
nụ hoa trên môi thiếu nữ, hay còn gọi cười nụ, cười để tỏ sự quan tâm, tạo thiện cảm)và bày tỏ ba lớp cảm xúc (nỗi sung sướng bất ngờ,
thấy thỏa mãn, vì ngỡ người tiên mà
quen, và một chút khiêm nhường, nhưng rất tự tin ). Đây là một khía cạnh trong cái
tôi cá nhân nhà thơ : ngông
Qua phần thứ ba của câu chuyện, Phát triển, tác giả theo trình tự thời
gian để ghi lại sự việc, miêu tả cụ thể ,rồi bày tỏ cảm xúc .Phát triển thứ nhất , tác giả kể cảnh mình không
cánh mà cùng tiên bay lên trời . Gặp Trời, ông sụp lạy, Trời
cho phép ông ngồi ghế Ông tả cửa
son đỏ chót,ghế bành trắng như tuyết,có vân như mây . Câu thơ đầy cảm xúc sung
sướng, ca ngợi,ngỡ ngàng : thiên môn đế khuyết như là đây ! Phát triển
thứ hai,
, kéo dài trong bốn khổ (chư tiên... lạnh như tuyết), có thể là một phần trọng tâm của câu
chuyện lên tiên hầu trời, vì qua đây ,
nhà thơ giới thiệu tỉ mỉ sự nghiệp sáng tác của mình .
Theo tiểu sử (
trong Từ điển văn học), năm 1907 , nhà thơ viết bài “Á Âu nhị châu hiện thế luận” được đăng trên một tờ báo ở Hồng Kong .Có thể gọi văn bản nghị luận này là tác phẩm đầu tay của
một nhà nho lỡ thời tuổi mười tám .Sau
đó, các bài thơ in trong tập “Khối tình
con I” được sáng tác từ 1907-1916, trong đó tác giả gửi gấm những nỗi lòng về
đường thi cử dở dang, chuyện tình riêng không trọn . Năm 1905, ông lập gia
đình, và cho công bố những bài văn đầu tiên trên Đông Dương tạp chí .Tất nhiên, khi tác
phẩm văn học được in báo, tác giả được nhận một khoản tiền gọi là nhuận bút ,
cho nên khi người anh từ trần ( từng hỗ
trợ cho gia đình nhà thơ), cuộc sống trở
nên cùng túng, năm 1916 Tản Đà quyết định chuyển hẳn sang nghề cầm bút, từ nhà
thơ, nhà văn chuyển sang làm nghề nhà báo .Hàn Mặc Tử vốn làm ngành đạc điền ở
Quy nhơn cũng vào Saigon làm báo sau này
. Tập thơ Khối tình con II ra đời .Tiểu sử cho biết nhờ tiếng vang của những bài văn đăng trên Đông dương tạp chí ,
Giám đốc Trường Hậu bổ Vayrac muốn đặc cách cho Tản Đà vào học, nhưng ông từ
chối . Ta biết đa số các tác giả trong phong trào Thơ mới đều theo tây học, và
có những vị trí xã hội nhất định, là những công chức của nhà nước thực dân ( bên cạnh việc làm thơ, làm
báo , bán thơ văn
là nghề phụ )nên thu nhập ổn định , thì Tản Đà , gần như là kẻ “vô công rồi nghề.”. Thân sinh là một quan Án sát, giữ
chức Ngự sử trong kinh, mẹ là một đào hát, nhan sắc, giỏi văn thơ, nhưng Tản Đà
lại lận đận trong thi cử (hai khoa thi Hương
1909, 1912 đều hỏng ), dù ông từng được học hành, 14 tuổi đã thạo các lối từ chương thi phú
.Không đi học, ông dựng kịch bản tuồng cho các rạp hát .Qua đoạn thơ này
trong bài “Hầu trời ”,(quãng thời gian sáng tác từ 1907-1924 là chưa dài ) ta thấy
Tản Đà có năng lực sáng tác thật dồi dào
(số lượng tác phẩm lớn) và ông có thiên hướng rất nhiều thể loại . Từ điển văn
học cũng đánh giá : trên văn đàn công khai của Văn học Việt Nam hơn ba thập niên đầu thế kỷ XX, Tản Đà nổi lên như một
hiện tượng đột xuất , vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tạo . Là một cây
bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực , ông để lại một khối lượng tác
phẩm không nhỏ, bao gồm nhiều thể loại : thơ ca, luận thuyết, truyện cười, truyện ký, tiểu
thuyết , biên khảo , chú giải , dịch thuật, và cả những vở tuồng . Thơ(mà tác giả gọi là văn chơi) có Khối tình con I,II. Tác phẩm Khối tình thuộc văn thuyết lý
(những bài xã luận về chính trị )Đài gương, Lên sáu , Lên tám (là bài thơ viết để răn dạy thiếu
nhi hay Văn vị đời) . Tóm lại, trong tất cả các thể loại văn học, từ thơ, truyện, nghị
luận, kịch.. , về nội dung như giải trí, giáo dục,chính trị…Tản Đà đều có cống
hiến với mức độ nhất định. Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có "Thần tiền,” một tiểu thuyết giàu tính
hiện thực, “ Giấc mông con”(tiểu thuyết ), "Đàn bà Tàu- truyện
dich " (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có "Đài gương truyện ",
"Lên sáu" (1919)
Mượn cách nhận xét của Trời, Tản Đà cho biết sáng tác của ông có lối
hành văn phong phú .Ngôn ngữ đẹp đẽ trau chuốt , sánh với sao băng(những vệt sao băng
rơi tạo nên khung cảnh lung linh khiến
nhiều người choáng ngợp!); giọng văn khi thì mạnh mẽ
, hùng hồn , sánh với mây chuyển . Hẳn là giọng của văn luân
lý,chính trị . Êm như gió, tinh như
sương , có lẽ giọng của thơ. Tản Đà để
lại những bài thơ về mùa thu trong tập
Còn chơi , đó là các bài Cảm thu, Tiễn
thu, Gió thu rất đặc sắc ; đầm như mưa, lạnh như tuyết (ngôn ngữ tiểu thuyết ). Tác
giả vận dụng thủ pháp tự sự truyền thống rất khéo léo . Ông giới thiệu những
tác phẩm, thể loại đặc sắc(kể), sau đó để cho Trời nhận xét (tả)và nêu cảm nghĩ
từ ông và từ trời : giàu (nhiều tác phẩm)lắm lối (thể loại)giọng và ngôn ngữ
thì “thật tuyệt, hiếm hoi ở trần gian”.
Bắt đầu sáng tác từ 1907, đến 1937, khi sức khỏe yếu , ông đã viết rất
nhiều . Bài Hầu trời (1921-22)chỉ lược kê một số nhỏ
lượng tác phẩm đồ sộ của ông .
Qua đoạn thơ hay một cảnh thú
vị giữa thiên đình, ta thấy Tản Đà rất tự tin về tài năng hiếm có của mình . Cả
thiên đình dường như cùng nhau thích thú
theo dõi (lè lưỡi, chau mày, lắng tai)và sau đó thì tranh nhau “đặt hàng”. Ta
biết (theo Từ điển văn học),năm 1921, Tản Đà làm chủ bút Hữu thanh tạp chí ( chịu trách nhiệm chính trong công
tác biên
tập của một tờ báo hoặc tạp
chí
tức : tuần san, tuần báo, được xuất bản định kỳ vào một ngày trong tuần.),
diễn thuyết về “Đời đáng chán hay không đáng chán”(nhằm giải thích thái độ dấn
thân vào lĩnh vực báo chí của mình). Nhưng chỉ
sáu tháng, ông đã từ chức, về
quê, đến 1922, trở lại Hà Nội , lập Tản Đà thư điếm (tiệm bán sách)rồi lập Tản
Đà thư cục( hiệu sách lớn), cho xuất bản tiểu thuyết Thề non nước và tập
thơ truyện Còn chơi
. Lập tiệm bán sách ngày càng lớn, cần
in sách để bán, công việc không đơn giản .
Ở Phát triển thứ ba, Tản
Đà tâm sự những khó khăn,vất vả trong việc kinh doanh đầy mới mẻ này ở Việt
Nam: chỉ có vốn là một bụng văn, còn các thứ (mặt bằng,công nhân,giấy ,mực )đều chi phí cao,mà thu vào thì sao?
Rẻ như bèo .Kiếm lãi rất khó (Khẩu ngữ) rẻ đến mức như không có giá trị
gì (vì có quá nhiều và dễ kiếm).Mọi chi tiêu cho cuộc sống dựa vào món tiền lãi
như bèo ấy (làm quanh năm+ chỉ lo ăn mặc+ tuổi cao= chẳng đủ tiêu, và đây là
thiên lương quá nặng nề) Đoạn thơ đậm đặc chất trữ tình . Nhà thơ dùng nhiều
thành ngữ (thước đất không có, rẻ như bèo,một cây chống bốn năm chiều ), thể
hiện nỗi vất vả với nghề.Có lẽ ông muốn
chân thành bộc lộ nỗi niềm, nên đoạn thơ kể kể chứa
lời khẩu ngữ giản dị, cuộc gặp gỡ
mang ý nghĩa tình cha con .Một bụng văn, kiếm ít tiêu nhiều, quanh năm chẳng đủ
tiêu, …là thực trạng của giới văn nghệ sĩ, nhà báo mọi thời đại . Thuyết “thiên lương ”bao gồm lương tri (tri giác trời cho)lương tâm (tâm tính trời
cho)lương năng (trời cho) .Tác giả quan
niệm rằng nhờ vào ba phẩm chất này mà
gầy dựng lại “cái hay của trời cho trong tự nhiên,trong loài người, ” để cải
biến tình trạng “luân thường đảo ngược, phong hóa suy đồi” và sự trì trệ lạc
hậu của xã hội Việt Nam trước mắt .
Một đoạn thơ tự sự pha màu sắc trữ tình , kéo
dài trong 16 câu, bằng hai bài thơ bát cú,
chỉ gieo hai vần rất chặt ( ó và iêu ) Cách gieo vần quả tài tình,ở một năng
lực kinh nghiệm, bản lĩnh . Nhờ những từ mang vần gắn bó toàn bộ đoạn thơ với
nhau, đã tạo nên tính nhạc phong phú cho bài thơ , bởi lối dùng từ , cách kể
lể, than thở, tâm sự dài dòng , không thể chuyển đổi sang những từ trau chuốt, giàu nhạc điệu
vốn là đặc trưng của thơ được .
Đọc hết mọi tác phẩm từ thơ ca , đến tiểu thuyết, sách giáo dục,sách nghị luận, rồi kể kể, ai ai cũng hiểu những
khát vọng của Tản Đà. Tấm lòng chứa chất những
ước mơ chỉ gặp trong những câu chuyện tự sự -lãng mạn. Nếu hai chị em
Liên và An (truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam)chỉ mong mỏi ba điều : được về Hà nội, tận hưởng cuộc sống đầy đủ về
vật chất “ăn món ngon, uống ly nước xanh đỏ”, được ngắm cảnh rực sáng và ồn ào
mỗi lúc đêm về , thì Tản Đà cũng mơ ước ngần ấy
điều, “người lớn ”hơn ,vì ông đã làm chủ một gia đình, đứng đầu một nhà
xuất bản , sáng tác nhiều loại sách hay
: việc kinh doanh thuận lợi, lãi tăng để
duy trì cuộc sống, và nhiều người được đọc sách ông viết..Nhưng tất cả chỉ là
mong mỏi .
Vì
vậy,câu chuyện đi đến đỉnh điểm . Tác giả trách trời , và đầy lo lắng (Trời lại sai con việc nặng quá,
biết làm có được mà dám theo )Tâm trạng nặng trĩu lo âu. Đây cũng là nỗi lòng, cảnh ngộ của hầu
hết mọi nhà xuất bản, hay tác giả thời
bấy giờ . Khi nền kinh tế khai thác thuộc địa của Pháp đi vào giai đoạn ổn
định, văn chương trở thành hành hóa . Việc
viết thơ văn để bán, rồi in ấn,tạo
mối thông giao với người đọc , trở thành một hoạt động ở thị trường kinh
tế đô thị thời thuộc Pháp . Nhiều người xem đây là công việc mưu sinh như Tản
Đà, bởi ông không có bằng cấp cụ thể (Tản Đà hai lần hỏng thi Hương), không có
điều kiện trở thành những công viên chức cho nhà nước thực dân phong kiến đầu
thế kỷ XX , trong khi phần lớn các thi
nhân,văn nhân lúc ấy đều được hưởng lương chính thức,
sáng tác là nghề tay trái . Những
khó khăn, vất vả tác giả gặp khi được Thượng đế , hay số phận,định mệnh giao
cho, đó là thiên lương.
Như Thúy Kiều lúc cùng quẫn đành
phải nhảy xuống sông Tiền Đường tuẫn tiết , tác giả cũng thấy rõ mình gặp bao
nhiêu khó khăn. Câu chuyện đã đi đến cao trào , buộc phải giải quyết . Kiều
được cứu sống,còn Tản Đà thì sao ? Ta
hãy xem phần Mở nút .
Phần thắt nút chứa biến cố tác gỉa ,một vị trích tiên , được vời lên tiên, thì ở
phần này, những lo toan trần gian của tác giả được vị tiên đế an ủi trong đoạn thơ bốn câu gieo vần trắc , vẫn ẩn
chứa bao trục trặc ,gian nan, cay đắng trên con đường thực hiện thiên
lương, một vị trích tiên lạc lõng giữa
trần gian, viết thơ văn, tự in bán,
để mưu sinh ,và để cải tạo đời sống tinh
thần cho xã hội . Dù trước đây, và dù trời cao,
thi nhân của chúng ta chưa than thở, trời “đã biết, trời thấu hết ”.Thôi,dù
gian lao, nhọc nhằn, Trời thấu rõ, như
một nghiệp chướng, đành cam nhận .
Phần cuối câu chuyện,
tác giả cũng dành một đoạn để đúc kết câu chuyện và bày tỏ cảm nghĩ , như bao tác phẩm tự sự
khác .Cảnh biệt ly đầy lưu luyến , rồi chỉ trong phút chốc, tác giả đã về
lại quê nhà . Ngày mới , tiếng gà gáy,
tiếng người lao xao, khung cảnh trần
gian , với bao buồn vui . Tác giả bâng khuâng , mơ ước , mong đêm nào cũng được
lên gặp trời, hầu chuyện cùng ngài .Những câu thơ giàu
nhạc điệu và hình ảnh , từ ngữ
gọt giũa (giọt sương rơi, sao thưa vắng, trăng tà , tiếng gà xao xác , riêng ngậm ngùi ), những từ Hán Việt cổ kính (lụy biệt ,vạn dặm khơi , khí thanh, non Đoài,
trần giới , trần gian , ) đã đem lại không khí trang trọng cho bài thơ , chính
là khát vọng nghiêm túc của nhà thơ về cõi
trần gian này. Chuyện được hầu trời chỉ là một cuộc gặp gỡ mang tính giải
trí, còn cuộc sống muôn màu này ,dù chồng chất khó khăn,mới là những giá trị
thực cần trân trọng . Đó là trách nhiệm công dân mỗi thi nhân, mỗi tạo vật cần
giữ lấy .
Câu hỏi : 1. Hãy kể lại câu chuyện nhà thơ Tản Đà lên hầu
trời qua 5 bước ( tác giả kể cụ thể thời gian, không gian và lý do được
đón lên trời, Phần thắt nút xảy ra khi ra sân dạo chơi, có biến cố gì tạo tình
huống truyện ? phần thứ ba của
câu chuyện, Phát triển, tác giả theo trình tự thời gian để ghi lại
sự việc, miêu tả cụ thể ,rồi bày tỏ cảm xúc. Ở đây có ba mục nhỏ (a) tác giả kể cảnh cùng tiên bay
lên trời,(b) nhà thơ giới thiệu tỉ mỉ sự
nghiệp sáng tác của mình(c), Tản Đà tâm sự những khó khăn,vất vả trong việc kinh doanh. Câu chuyện đi đến
đỉnh điểm ( tác giả trách trời , và đầy lo lắng) phần Mở nút ,những lo toan trần gian của tác
giả được vị tiên đế an ủi .
2. Phần đầu, tác
giả giới thiệu thời gian, không gian và bản thân, nhân vật chính . Tại sao chọn thời khắc canh ba ? Tại sao ông
không viết mà ngâm? Phần đầu có tác dụng gì
trong câu chuyện tự sự?
3. Thắt nút trong một văn bản tự sự rất quan trọng, tại sao ? Đoạn thơ tự sự này có tính nghệ thuật rất
độc đáo .Hãy phân tích giá trị của nó (
cách kể chuyện,miêu tả, ngôn ngữ, giọng điệu ..) một khía cạnh trong cái tôi cá
nhân nhà thơ được bộc lộ .Cái
tôi gì .Chứng minh .
4. Trong phần Phát triển, tác giả theo trình tự thời gian để ghi lại sự việc, miêu tả cụ thể ,rồi
bày tỏ cảm xúc .Trong ba mục nhỏ ((a) tác giả kể cảnh cùng tiên bay lên trời,(b) nhà thơ giới thiệu tỉ mỉ sự nghiệp sáng tác của mình(c),
Tản Đà tâm sự những khó
khăn,vất vả trong việc kinh doanh.)mục nào là trọng
tâm.Phân tích kỹ : tên và số lượng tác phẩm, lối hành văn
phong phú .Thái
độ của tác giả và Cả thiên đình ra sao ? những khó khăn,vất vả trong việc kinh doanh như thế
nào ? Đoạn thơ tự sự pha màu sắc
trữ tình, chỉ gieo hai vần rất chặt ( ó và iêu ), cách
gieo vần như thế
có tác dụng gì ?
5. Câu chuyện đi đến
đỉnh điểm : Tác giả trách trời
, và đầy lo lắng. Nghệ thuật đoạn này có đặc điểm gì ?
6. Mở nút, phần này, những lo toan trần gian
của tác giả được vị tiên đế an ủi trong đoạn thơ bốn câu gieo vần trắc .Tại sao ?
7. Phần đầu và kết câu chuyện : tác giả nêu lên tâm trạng gì ( sẽ mô tả trong câu
chuyện) với ngôn ngữ như thế nào , đoạn để đúc kết câu chuyện và bày tỏ cảm nghĩ , thì tâm
trạng, ngôn ngữ, giọng điệu có nét gì độc đáo ? Tại sao ?
No comments:
Post a Comment