Monday, August 26, 2019

BÀI 24 THƠ HAIKU


                  
A.   NHỮNG KIẾN THỨC  CHUNG :
I.                   THỂ THƠ HAIKU
1.      Định nghĩa :
 Haiku âm theo lối chữ Kanji ( gốc chữ Hán) là bài cú , có nghĩa là câu nói để trình bày . Chữ "hai" nghĩa là "bài" , tiếng Hán Việt có nghĩa "phường tuồng" , chữ "ku" là "cú" hay "câu". Haiku là loại thơ độc đáo , rất thịnh hành của Nhật Bản và là loại thơ ngắn nhất trên thế giới.
2.     Đặc điểm:
a   . Về hình thức :
          Một bài thơ theo thể thơ Haiku có ba giòng, giòng đầu và giòng cuối mỗi giòng có năm âm, ôm lấy giòng giữa có bảy âm, có dạng 5-7-5, tổng cộng 17 âm.
 Tiếng Việt có rất nhiều từ được cấu tạo bởi một âm tiết, mang một  ý nghĩa nhất định, chẳng hạn như  cây, hoa, ấm, tôi…, thì đối với tiếng Nhật, phần lớn các từ được cấu tạo từ hai âm tiết trở lên và mỗi một âm tiết thường không mang ý nghĩa nào cả, thí dụ như danh từ shizukesa có nghĩa là sự thanh tịnh gồm 4 âm tiết . Haiku có biến thể là 5-7-6 hay 5-8-5, lên 18 âm trọn bài.
Không có nhan đề, không cần vần điệu , nhưng thơ Haiku là sự kết hợp giữa màu sắc, âm thanh, tượng hình có chọn lọc.
   b      Về nội dung :Một bài Haiku Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là Mùa và Tính Tương Quan
Hai hình ảnh, một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường), đó thời gian và không gian cô đọng lại như khung cảnh hiện thực của một bức ảnh . Thoạt nhìn chỉ là một bài thơ ngắn gọn, nhưng người thơ đã dẫn dắt chúng ta thênh thang bước vào một cõi tư duy vô cùng bát ngát, một chân trời sáng tạo rộng mở mà người đọc cần có một sự tưởng tượng dồi dào phong phú   , thơ haiku hàm chứa nhiều nét thi vị Thiền.

        
   C  Những cảm thức thẩm mỹ khác Sabi, wabi, aware và karumi.
-Cảm thức Sabi (Tịch) Sabi là sự tịch liêu, sự tĩnh mịch sâu xa tuyệt đối, khi lòng người lắng xuống tận đáy kí ức tâm hồn, sự vật nhìn thấy trước mắt mà cứ ngỡ đã trôi về một miền vô định , lắng nghe được thanh âm của tự nhiên tâm hồn con người trở thành tấm gương phẳng lặng soi chiếu vạn vật.
-Cảm thức Wabi (Đà) sự thanh bần an lạc, sự dung dị , thanh cao của cuộc sống con người và sự vật. Cơ sở của wabi chính là bắt nguồn từ quan niệm của người Nhật Bản “Vạn vật hữu linhTheo quan niệm đó, sự sống bao quanh con người, dù bé nhỏ hay to lớn, vô tri vô giác hay có ý thức và cảm giác, đều là biểu hiện của sự sống ., đưa con người về với thiên nhiên bình dị, trữ tình, đưa nghệ thuật về với đời thường.
Wabi chính là cuộc hội ngộ giữa cái đẹp và tính giản dị, tâm hồn và thiên nhiên, tính chất phác, mộc mạc và cái sâu thẳm, tuyệt diệu.
  -Aware là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não nùng của sự vật, một bi cảm thâm trầm. Đối với người Nhật, sự rơi rụng hay tàn héo của một bông hoa đẹp hơn khi nó ở trạng thái bung nở, một âm thanh mơ hồ hay hơn khi nó rõ ràng, vầng trăng bị mây che khuất một phần quyến rũ hơn một vầng trăng tròn đầy viên mãn. Họ đánh giá cao những gì ở trạng thái ban sơ, tinh khôi, không tồn tại lâu dài và không thể chạm tới. Đó là cái Đẹp mong manh thấm đượm cảm thức vô thường của Phật giáo.
Trong cuộc đời, còn – mất, được – không, con người ra đi – sự vật ở lại...tất cả là niềm bi cảm của con người.
   -Cảm thức Karumi (Khinh) bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thoát. Đó là một niềm khinh thanh êm đềm bay lượn giữa tro than và cát bụi trần gian, vẻ đẹp của con người và sự vật ẩn chứa trong nét bé nhỏ và tưởng chừng như bị quên lãng.
 3. Hướng cảm nhận : Thơ Haiku viết ít chữ nên không thể  trình bày và giải thích, mà  chỉ đủ chữ để gợi ý. Phần còn lại tùy vào người đọc khám phá và mở rộng. Nội dung của thơ  thường là sự tương quan giữa cảnh thiên nhiên và cảnh tượng nội tâm. Sự so sánh, nghịch đảo, liên hoàn hoặc bổ xung những thực tế đang nhìn thấy với trừu tượng trong tâm trí, rồi mở ra một thế giới cảm nhận và tư duy không kết luận.
Tinh thần thơ Haiku là gợi ra. Bài thơ không bao giờ có kết luận. Câu thơ đã dứt nhưng thơ vẫn còn. Bài thơ chấm dứt trong mỗi người đọc khác nhau.

 II. CẢM NHẬN MỘT SÔ BÀI THƠ THỂ HAIKU
1. Thi sĩ Basho (Ba Tiêu)  viết :
Cánh đồng bông gòn
vầng trăng
rớt hoa.
Hoa gòn trắng hay ánh trăng sáng? Những câu thơ sáng tác theo tinh thần  Haiku  như lửng lơ, không có những nối kết bình thường. Ở đây,  người đọc   chú ý  hai hình ảnh (bông gòn và vầng trăng) Theo chuỗi liên tưởng, màu trắng hoa ,màu sáng trăng cùng hiện lên , một nhỏ bé, một rộng lớn , nhưng bao trùm lấy nhân vật trữ tình ,nhà thơ .Cảm thức wabi, khi con người thấy lòng thật sáng và thông suốt. Mọi phiền toái đều có lối giải quyết . Quý ngữ hẳn mùa thu ( trăng sáng ), đấy là lúc thời tiết êm dịu, khiến tâm hồn cũng thanh thản .
2 . Bực mình, quay về nhà
thấy trong vườn hoa
cây Dương Liễu.
Nhưng đọc đi đọc lại, tự hỏi, có điều chi mà lưu danh hậu thế? Dần dà mới cảm được sự an bình của cây Dương liễu  rũ lá. Tương phản với nỗi bực mình là nỗi yên lành ngay trong vườn nhà. Bình an từ đâu đến? Ngay trong lòng thôi. Ở đâu có bực bội, ở đó có tâm lành.
 Dương liễu ( quý ngữ) là mùa xuân , thời khắc của bắt đầu mọi sự sống , mang đến bình an .  Xã hội bên ngoài rộng lớn và phức tạp, thì  vẫn có một  khóm dương liễu ở một góc vườn . Cảm thức aware ,những được thua, vinh nhục, mất còn trở nên vô thường vì  con người sống trên đời này cũng chỉ là hư ảo. Giá trị lớn nhất là sự bình an .


3. Một  bài Haiku của thi sĩ Nhật là Yamazaki Sokan ( ?- 1540 )
Nếu
gắn cán vào mặt trăng
cái quạt mo
Phải "thấy" trăng mùa gặt thường rất tròn, giống như cái quạt mo sáng, chỉ thiếu cái cán. Nhưng bài thơ không ngừng ở đây. Sự khôi hài gắn cán vào trăng biểu lộ niềm vui ngày mùa. Người lớn ăn mừng, trẻ em ca hát. Vầng trăng gắn cái cán trở thành cái quạt, trò chơi của trẻ con. Thằng Bờm có cái quạt mo. Phải chăng mỗi người trong chúng ta khi đang vui dưới trăng rằm, đều có một đứa trẻ nhảy múa trong lòng?

4. Trong tinh thần gợi và mở, Lorca, nhà thơ siêu thực Tây Ban Nha ( 1898-1936) đã viết:
Trăng lên                                           Cuando sale la luna
trăm mặt tròn giống nhau                de cien rostros iguales,
đồng tiền kẽm                                   la moneda de plata
trong túi than khóc                            solloza en el bolsillo.
                                                           ( La luna asoma )
Trăng của Lorca hiện đại hơn , tây phương hơn, tròn như đồng tiền kẽm. Đồng tiền nằm trong túi than khóc cho thân phận bị mua đi bán lại. Còn trăng nằm trong túi đất trời, có khóc cho thân phận gì chăng? Trong bài Flor, ông viết đóa hoa: (Flor.)
Dương liễu rũ lá sầu                        El magnifico sauce
dưới cơn mưa, tráng lệ                    de la lluvia, caía.
Kìa, trăng tròn                                   Oh, la luna redonda
trên cành sáng!                                 sobre las ramas blancas!
Hoa là trăng hay trăng là hoa? Có cần thiết để có một luận lý rõ ràng không? Hay cứ ngẫu nhiên ghi xuống hình tượng phát giác từ tâm tưởng.




4. Thơ haiku thường gồm ba câu, dựa trên âm tiết (syllables): năm, bảy, năm. Với tác giả Nguyễn Đức Tùng,  Hiện nay được học sinh các trường trung học châu Âu và Bắc Mỹ sáng tác nhiều.
Yare utsu na (5)
Hae ga te o suru (7)
Ashi o suru (5)
(Kobayashi Issa)
Oh don’t swat
The fly rubs hands
Rubs feet
(bản tiếng Anh của William Higginson)
Ô, đừng đập nó chứ
Con ruồi đang gãi hai bàn tay
Đang gãi hai bàn chân
Hay đang cầu nguyện? Thơ hài cú là nghệ thuật bắt được một giây lát, biến nó thành vĩnh hằng.


B  ĐỌC HIỂU :

Ta hãy tìm hiểu một số bài haiku trong sách giáo khoa lớp 10 .
   1 .Quê Basho ở tỉnh Shiga gần hồ Nihô – một hồ nhỏ nằm trong hệ thống hồ Biwa (Tì Bà) nổi tiếng của Nhật Bản. Danh thắng hồ Biwa được nhiều người biết đến bởi vẻ đẹp thơ mộng của nó. Vào mùa xuân, hoa anh đào trồng ven hồ nở rộ tạo thành những “đám mây hoa”. . Hoa anh đào đối với người Nhật có ý nghĩa đặc biệt, nhìn hoa anh đào khiến người ta chợt nhớ bao mùa hoa anh đào trong quá khứ. Còn nói theo ngôn ngữ nhà Phật, hoa anh đào là biểu tượng của sự vô thường trong cuộc đời

Mỗi khi gió thổi, những cánh hoa hồng nhạt mong manh rụng xuống mặt hồ. Cảm xúc trước cảnh đẹp như cõi Bồng Lai, Basho viết :
Từ bốn phương trời
Cánh hoa đào lả tả
Gợn sóng hồ Niho
Basho - (Đoàn Lê Giang dịch)
Ấy vậy mà trong cảm nhận của Basho, chúng lại làm cho mặt hồ gợn sóng. Mặt hồ là hình ảnh lớn  Hoa đào một hình ảnh đơn sơ nhỏ bé.  Nét  nên thơ, bay bổng là nơi thi nhân kí thác một triết lí sâu xa – một tư tưởng biện chứng cổ đại : Vạn vật trong vũ trụ tồn tại trong một mối tương giao và hoà hợp. Chúng luôn tác động và chuyển hoá lẫn nhau trong một chu trình bí ẩn bất tuyệt. Mùa xuân là mùa  của sự sống, nên dù hoa tàn ( cảm thức aware) vẫn ấp ủ trong lòng người một sự than thản. Mất được là quy luật .

   2 .Hình ảnh mẹ trong thơ Haiku luôn  bát ngát, phiêu diêu Năm Basho 40 tuổi (năm 1884), nhà thơ hành hương đến Kansai. Khi về, thân mẫu của nhà thơ đã qua đời. Người mẹ thân thương của Basho giờ chỉ còn lại một mớ tóc bạc ông cầm trên tay. Đau đớn, cảm thương, nhà thơ viết :
 Lệ trào nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu
Basho - (Đoàn Lê Giang dịch)
Bài thơ phác hoạ hai  hình ảnh: mớ tóc bạc của mẹ trên tay, giọt lệ nóng hổi.Hai  hình ảnh tồn tại dường như độc lập với nhau.Tóc mẹ, hình ảnh hoán dụ , giọt lệ cũng mang ý nghĩa tu từ như thế . Một món tóc bạc, một giọt lệ nóng nhưng chất chứa trái tim mẹ thương nhớ con , con tủi buồn về mẹ . Và  bằng tưởng tượng, ta có thể hiểu sợi dây liên hệ giữa hai biểu tượng này . Không có điều gì trên cõi  đời này có thể sánh bằng tình mẫu tự . Nhưng rồi ,với quy luật,mẹ chỉ đi với con một đoạn đường . Rất nhiều  việc con chưa làm cho mẹ, nhiều điều chưa nói , như “sương mua thu” vậy . Cảm thức aware, chứa đựng tâm trạng buồn đau, nỗi tâm tình cùng nhân thế : hãy nghĩ đến mẹ, làm  một điều gì cho mẹ khi có thể !
   3 .Tình yêu thương của thi sĩ Basho toả rộng tới những sinh vật nhỏ bé khác. Ông đồng cảm với một chú khỉ con co ro trong cơn mưa lạnh mùa đông:
Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc  áo tơi
Basho - (Đoàn Lê Giang dịch)
Khỉ được xem là thủy tổ loài người,   là động vật tượng trưng cho tinh thần lạc quan,sự  nghịch ngợm. Khỉ là một những loài động vật thuộc lớp thú, bộ linh trưởng .Linh trưởng là một bộ thuộc giới động vật , ngành động vật có dây sống phân ngành động vật có xương sống, lớp Thú (hay động vật có vú) Loài người hiện đại thuộc về bộ này.
Ngày nay Bộ Linh trưởng được chia thành hai phân nhánh là Strepsirrhini  Haplorhini. Trong nhánh Haplorhini  họ Người  loài người . Trừ con người sống trên các lục địa trên Trái Đất, hầu hết loài Linh trưởng sống trong các vùng rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới của châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Ở đây ta thấy tác giả đưa ra hai hình ảnh tương phản ( bầu trời đông  và chú khỉ ) Bằng sự liên tưởng và tưởng tượng, ta sẽ cảm nhận nỗi co ro , tê cong  buốt lạnh của một chú khỉ nhỏ bé giữa  mùa đông buốt lạnh, kéo dài dai dẳng ở Nhật  .Nhà thơ vừa muốn  kể một câu chuyện, tả một khung cảnh ( số phận một sinh linh nhỏ bé, run rẩy giữa trời đông, chỉ khao khát một tấm áo tơi cũ kỹ ), kêu gọi thay đổi một thế giới tốt đẹp hơn , hay để nhìn sâu vào tâm hồn mình, hay để tìm một sự thật hoặc ý nghĩa sự vật ( một sinh vật nhỏ bé  , nhưng tại sao sống cô  độc,không chốn nương thân  ,  tê cóng giữa rừng đông. Có phải do sự phân biệt giai cấp, đảng phái , giàu nghèo, sang hèn . Hãy quan sát tất cả với cái nhìn rộng mở, không phán xét, nhận thức trong ta sẽ có sự chuyển biến.
    4  .Đất khách mười mùa sương
Về thăm quê ngoảnh lại
Edo là cố hương.
(Đoàn Lê Giang dịch)
 Ta thấy hai hình ảnh  : một nhà thơ trong vóc dáng một thiền sư  gầy gò và một vùng rộng lớn , phồn hoa đô hội là Edo ( thủ đô Tokyo ngày nay)Có một hình ảnh quê mẹ đối diện với thi nhân : quê mẹ . Cả hai miền quê ( nơi sinh ra , nơi trưởng thành ) đều là  đất nước của ông , đều đáng được trân quý, dù quê  cũ nghèo nàn, dù Edo hào nhoáng.  Cảm thức wabi , là sự hiện hữu của cái đẹp dưới bất kì khoảnh khắc nào, trong bất cứ sự vật mộc mạc nào của cuộc sống đời thường. Quý ngữ “mùa sương ” là tín hiệu thu về , không gian êm ả ùa đến lòng người từng mười năm sống nơi ồn ã, ngột ngạt, thật quý báu lắm .
      5 .Dù  miền  đất nào, thì “nơi nao dừng chân, chốn ấy quê nhà” . Basho viết như để giãi bày một nỗi niềm tri ân với  những nơi ông lớn lên, đặt chân qua, lưu dưỡng ông sống có ích cho đời .
Suốt thời trai trẻ (1666- 1672), Basho sống ở Kyoto (Kinh đô cũ của Nhật Bản). Sau đó, ông chuyển lên sống ở Edo. Hai mươi năm sau, khi trở lại Kyoto, nghe chim đỗ quyên hót, ông cảm xúc viết:
Chim đỗ quyên hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô.
(Đoàn Lê Giang dịch)
Hai hình ảnh  hiện lên trong ta: vùng đất Kyoto và tiếng hót thiết tha của đỗ quyên .Chim  đỗ quyên có giọng hót rất đặc biệt , không cất lên giọng  réo rắt hay lúi lo, mà  từng tràng “cuốc cuốc ” da  diết ,thiết tha đến nao lòng , như tiếng người gọi nhau . Nếu không chú ý sẽ  cảm thấy chuỗi âm thanh  này bị lạc lõng, nhưng nó đã dội vào ký ức nhà thơ yêu thiên nhiên,  đất nước, con người này Tại sao, nhà thơ đang ở Kinh đô, nghe tiếng chim kêu lại nhớ Kinh đô? Đúng là Basho đang ở Kyoto. Nhưng Kyoto hiện tại không phải là Kyoto của hai mươi năm về trước. Hai mươi năm xa cách, cố đô đã có biết bao đổi thay. Nhìn cảnh trước mắt nhà thơ không khỏi chạnh lòng trước những biến cải nương dâu bãi bể của cuộc đời. Tiếng chim đỗ quyên của thực tại gợi tâm trí nhà thơ nhớ tới tiếng chim đỗ quyên mà ông đã nghe hai mươi năm về trước. Cái còn trước mắt khiến người ta ngậm ngùi nhớ tới cái đã mất. Tiếng chim đỗ quyên trong thơ Basho tương đồng với những áng “mây trắng bây giờ còn bay” trong thơ Thôi Hiệu, với những bông “hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”.
     6  .Tình yêu quê hương, đất nước bộc lộ trong thơ haiku thật dung dị và hàm súc. Chỉ bằng một vài từ ngữ, hình ảnh nhưng nhà thơ đã mở ra cả một trời yêu thương trong trái tim mình. Cảm thức sabi, trong chuỗi âm thanh  nao lòng, ông nhận ra ý nghĩa cuộc sống và quy luật, quê hương là nơi con người luôn nghĩ về .
Khi đi qua chùa Lập-Thạch-Tự thuộc huyện Yamagata ngày nay, Bashō đã viết:
                             Shizukasa ya             Vắng lặng u trầm  
                        Iwa ni shimiiru         thấm
sâu vào đá 
                        Semi no koe              tiếng ve ngâm

 Ta có hai hình ảnh tương xứng, một bên là hang đá sâu thăm thẳm, vắng lặng đến rợn người và một bên là tiếng ve kêu râm ran. Quý ngữ hiển nhiên là một buổi trưa hè nóng bức , bởi khi không gian vào hạ ngột ngạt nắng nóng, ve càng dậy tiếng ngân . Vậy tác giả , nhân vật trữ tình cảm nhận được những điều gì ? Tiếng ve mùa hạ vốn dĩ rất ồn ã , bây giờ dường như mỏng manh hơn giữa  tận sâu trong hang vắng giữa  rừng  Trong tiếng ve kêu, nhà thơ bước vào cõi âm u, nơi mọi vật dung chứa lẫn nhau. Vẫn là tiếng ve ngày nào, vẫn là đá núi hôm qua và trái tim con người vẫn rộn ràng với những nhịp đập ngày thường của nó, nhưng không phải ở chốn ồn ào sôi động mà chính là trong tâm thức, trong cõi tịnh liêu. Dù cuộc đời có “động” đến đâu thì lòng vẫn “tĩnh”, ấy là Thiền, ấy là sabi. Nhà thơ bắt gặp nét thần thái hiện tại ( tiếng ve râm ran dội vào vách đá lạnh giữa rừng sâu ) mà miên man suy tưởng .
     7 .Tình yêu thương của Basho luôn  dành cho những con người bất hạnh. Trên đường hành hương, Basho đi qua một khu rừng. Trong tiếng gió mùa thu, nhà thơ nghe văng vẳng một âm thanh não nề không rõ đó là tiếng vượn hú hay tiếng trẻ con bị bỏ rơi đang than khóc. Xót xa, nhà thơ viết:
Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?
gió mùa thu tái tê.
(Đoàn Lê Giang dịch)
Bài thơ của Basho đưa người đọc trở về một thời xa xưa ở Nhật Bản cách nay hơn ba thế kỷ. Người nông dân Nhật Bản sống cuộc sống cơ hàn. Vào những năm mất mùa, cuộc sống đói kém, những gia đình sinh nhiều không nuôi nổi đàn con. Họ phải bỏ bớt những đứa trẻ yếu ớt hơn vào rừng để có cơm gạo nuôi những đứa khoẻ hơn khôn lớn, gọi là “tỉa”. Gió mùa thu ở Nhật vốn rất lạnh. Cái lạnh của cơn gió càng khiến tình cảnh của những đứa trẻ bị bỏ rơi thêm khốn khổ, đáng thương.
 Hai hình ảnh tương xứng tác giả bắt gặp như thần thái của bài thơ là không gian rừng  thu lồng lộng gió lạnh và tiếng vượn hú , ngỡ như tiếng trẻ con khóc . Những thanh âm vang lên từ những số phận khổ đau ấy dội vào tâm hồn nhà thơ, để lại trong đó những dư âm xót xa không cùng, đây là cảm thức aware , nỗi bi thương sâu đậm , trái tim nhạy cảm của nhà thơ rộng mở, đón nhận những âm thanh vang động của đời. Nhà thơ như muốn gióng lên một hồi chuông kêu gọi nhân loại chung tay bảo vệ trẻ con, hay hủy bỏ những hủ tục dã man này .
      8 .Thâm nhập vào thơ haiku, khái niệm hư không được các nhà thơ sử dụng để kiến tạo nên một nghệ thuật đặc trưng, chủ yếu của thể thơ này: kết cấu hư không
Có một bài haiku được Basho  viết ở Ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, ông đã thấy mình đi đến  những vùng hẻo lánh:
                                                                                       Nằm bệnh  giữa cuộc lãng du
                                                                                        Mộng hồn còn phiêu bạt
Những cánh đồng hoang vu .
Hai hình ảnh tương xứng là cánh đồng hoang vu mênh mông và  một con người, thi nhân, nhỏ bé, mệt lả vì bị chứng kiết lỵ. Quý ngữ Đồng khô lá vào  mùa đông , mốc thời gian kết thúc một năm , kết thúc một giai đoạn.Basho biết rõ đã đến tận lúc chấm dứt hành trình, giáp mặt với thượng đế, nhưng hồn vẫn đầy mộng phiêu bạt . Còn cái chết sắp đến với thi nhân không là bi kịch mà đó là điều tự nhiên của sự sống và cái chết. Khoảnh khắc sống và chết không là gì cả, là “vô thường”. Chết là từ biệt thế giới này để về với một thế giới khác, bởi “sinh ký, tử quy” Bi cảm aware là thế đấy . Mục đích viết bài  thơ từ  biệt mọi môn đệ, cũng là lúc tác giả muốn gửi gấm  quan niệm mang tính nhân sinh này .

B.       C KẾT LUẬN :
  Tên thật là Matsuo Kinsaku. Basho là bút danh ( tiếng Nhật Basho có nghĩa là cây chuối ,loại thực vật ông rất thích ). Ông sinh năm 1644, con trai út thứ bảy của một Samurai phục vụ cho lãnh chúa Thành Ueno . Ông làm thơ từ năm 20 tuổi . Năm 1672, ông đến Edo (ngày nay là Tokyo), thực hành Zen dưới sự chỉ dẫn của Thiền sư Butchovà trở thành một  thiền sư thi sĩ lỗi lạc của thời Edo  .
 Năm sau Ông xuất bản tập thơ đầu tiên mở đầu cho kiểu thơ riêng biệt của ông ( thơ haiku ) . Nhà thơ thường đi phiêu bạt nên có danh hiệu là "thi sĩ hành hương" . Năm 1694 Ông đi bộ xuống các tỉnh phía Nam của Nhật bị bệnh kiết lỵ và chết ở tuổi 50 . .Basho được công  nhận là người phát triển những câu đầu của thể renga ,thành một thể thơ độc lập mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền đạo. Về sau , Masaoka Shiki (1867-1902) hoàn thiện sự tách biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là thể haiku
  ( Dalat rằm tháng 2 âm lịch 2017 )



Bài 23 THƠ SONNET TÔI YÊU EM ( Puskin )



                    
I.                   VÀI NÉT GIỚI THIỆU:
1.     Thể loại:
 Thi khúc (sonnet ) là thể thơ 14 câu xuất hiện ở Ý vào thế kỷ thứ 13 do thi sĩ Francesco Petrarca (1304-1374) khởi xướng .Từ ngữ ‘Sonnet’ lấy từ     Ý ngữ là ‘Sonetto’ nghĩa là ‘tiếng hát dịu dàng’  nhưng có thể “sonnet” lấy từ cổ ngữ ’suono’ nghĩa ‘âm thanh’ (sound) và từ đó thi khúc được coi như tự nó là một nhạc khí. Trong khuôn khổ 14 câu thơ, thi nhân xử dụng một dạng  ngôn từ gọt giũa cầu kỳ,   cô đọng, tập trung  một hình ảnh mang  tư tưởng lẫn cảm xúc ,dung hòa khéo léo giữa từ ngữ  và lời từng câu , đặc biệt vần điệu đan kết vào nhau ( vần chéo ) các câu 1,3.5.7có cùng một vần, các câu  2.4.6.8 chung vần.
    2  .Bài thơ “ Tôi   yêu em”  vốn không có tên , nhan  đề này do người dịch  đặt . Nguyên tác bài thơ ( dịch sang tiếng Việt ) như sau :
Tôi yêu em: đến nay chừng có thể 
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai 
Nhưng không để em bận lòng thêm nữa 
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài

Tôi yêu em âm thầm, không hy vọng
 
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen
 
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm
 
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em
  (Bản dịch của Thúy Toàn)
3. Hoàn cảnh sáng tác :

Mùa hè  năm 1829 Pushin đã cầu hôn Ô-lê-nhi-a nhưng không được chấp nhận. Bài thơ đã ra  đời  như thế . Lúc này  nhà thơ Puskin ở tuổi  ba mươi ( 1799-1829 )  Tam thập nhi lập, dù là người Châu Âu hay châu Á chúng ta , đúc kết  này  với   biết bao kinh nghiệm của cha ông, không hề khập khiễng . Puskin đã trưởng thành về sức  khỏe,   nghề nghiệp, tình cảm, trí tuệ, đặc biệt kinh nghiệm  đối nhân xử thế . Như vậy “ tôi” không chỉ là một  thanh niên bộc tuệch, bồng bột  trong tình yêu, mà còn là một con người trưởng thành, từng trải, hiểu biết, sống có trách nhiệm . Tình yêu không dừng lại ở chiếm hữu, mà là sự trân trọng , tin cậy. Thi nhân xử dụng một dạng  ngôn từ không  gọt giũa cầu kỳ,nhưng   cô đọng, tập trung  hai hình ảnh mang  tư tưởng lẫn cảm xúc ,dung hòa khéo léo giữa từ ngữ  và lời từng câu   Tôi và Em
II.                 
Để giúp học sinh đọc hiểu bài thơ này, chúng ta không thể tìm nguyên bản Tiếng Nga, mà chỉ có thể dựa vào  một vài dặc điểm thể sonnet thông qua định nghĩa .
Có thể trước hết , hãy xác định  một hình ảnh chứa cảm xúc lẫn tư tưởng toàn bài , đó là “ tôi yêu em” .
         Tôi là đại từ  xưng hô ngôi thứ nhất số ít, hàm chứa một tình cảm trung tính . Em là đại từ  xưng hô ngôi hai,số ít, hàm chứa  tình cảm quan tâm, gắn bó . Nhưng hai đại từ này  đi trong một vế lại không tương xứng . Em hẳn phải có ngôi một là Anh . Ngược lại, Tôi buộc phải đi với  đại từ ngôi hai số ít  là Cô .  Đặc biệt  giữa Tôi và Em có một động từ rất đặc biệt :  yêu .  Yêu nghĩa là gì ? Trong quan hệ nam nữ để đích đến là hôn nhân, thì Yêu là một  hành động , trong đó hai con người luôn nghĩ về nhau, dành cho nhau những tình cảm tốt đẹp,  và ấp ủ tư tưởng chiếm hữu thân xác  . Cách xưng hô từ đó trở nên rất thân mật : Anh ( ngôi một số ít ) và Em ( ngôi hai số ít ) hay ngược lại cũng thế . Nhưng ở đây, đã có một khoảng cách : tôi-em . Nhạc sĩ Thanh Tùng của Việt Nam  có một bài hát được nhiều người yêu thích , không chỉ ở  giai điệu, mà ở lời . Em và tôi, một bông hoa sắc thắm, Một cành khô không chồi. Em và tôi ,một đêm trăng sáng ,một ngày chiều tàn. Em sao mai đầu non Còn tôi sao hôm mỗi tối     thể hai nhân vật Em và Tôi của Thanh Tùng cũng chính là cảnh ngộ  giữa A.A. Ô-lê-nhi-a  và Pusin

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Minh, động từ “ yêu” được chia ở thì quá khứ , có nghĩa là  câu chuyện đã xảy ra, tưởng mờ chìm, tưởng bị vùi lấp tận đáy sâu nhưng nó vẫn hiện hữu . Hiểu như vậy mới biết sức sống của cuộc tình trong trái tim nhà thơ luôn thường trực hiện diện. Và nó gào réo miên man như sóng vỗ bờ, như ngọn lửa âm ỉ cháy. Nó biến tấu trong mọi cảm xúc nghĩ về em để hành hạ thể xác và tâm hồn thi sỹ. Có  tám câu thơ nhưng 3 lần  điệp ngữ “tôi yêu em” được nhắc tới, 3 lần từ em xuất hiện trong những câu không chứa ngữ “Tôi yêu em”, trở thành một giai điệu vang lên day dứt khôn nguôi. Sáu trong tám câu thơ chứa từ “Em”, như một thủ pháp miêu tả hình ảnh em choáng ngợp hiện hữu trong mọi miền không gian thời gian của trái tim nhà thơ . Những từ ngữ được lặp lại như vô thức ấy để nói một sự thật : “Em” ở khắp cả mọi nơi trong cái thế giới mà anh sống và anh chỉ nhìn thấy có em trong ngọn lửa tình không nguôi tắt của trái tim anh.




  Có một người đã  nhận định: con người ta sống thật khi yêu. Ở đây, Puskin đã yêu thật mãnh liệt.  Đấy còn là tình yêu cuộc sống, con người đất nước đến vô bờ ở chàng thanh niên tuổi ba mươi này .- Sự mãnh liệt đó là “ tình yêu không tắt”. Một con người ấp ủ tình yêu mãnh liệt, thì đó là người rất mạnh mẽ. Không chỉ ở cơ bắp, mà ở tâm hồn,nghị lực, ý chí .
  Yêu và sống dữ dội, nhưng không bồng  bột . Tuổi ba mươi, có thể đã va vấp một vài lần về công danh sự nghiệp, về mọi mối quan hệ, nên bây giờ trong yêu đương, anh biết chọn “ điểm dừng” . Đó là con người chín chắn và trưởng thành . Hẳn nhiên có người “ không chịu lớn” rất ích kỷ, ham hố, không biết chấp nhận và đón nhận cả hạnh phúc và đau thương. Bị từ hôn là nỗi đau lớn nhất trong ba bi kịch: mất danh tiếng, mất tiền  tài, và mất tình yêu .
 Nhưng, dù  thế nào, anh vẫn không thể chối bỏ trái tim chảy máu, ghen tuông. Anh dám đối diện với nỗi đau và nói lên sự thật . Nói ra sẽ nhẹ lòng,bởi anh là người chân thành, trọng lẽ phải và sự thật. Trong cuộc  sống, tìm được sự chân thành trong chính tâm hồn mình, tìm một con người thật thà trong đời,ở xã hội nào, thời điểm nào, thật khó lắm thay.Nhưng Puskin qua tình yêu, vui mừng “ thú nhận” điều này. Thà để sự thật thắng, cho sự mất mát, “ bị leo cây” thua, nhưng “ chiến thắng  ba quân không bằng thắng chính mình” .
 Ham sống , chân thành, chín chắn, vì  chàng trai này rất bao dung, độ lượng. Tâm lý chung của người đau khổ khi tan vỡ một cuộc tình, dù  là càng bẽ mặt bởi phụ bạc, nhưng anh không nung nấu tư tưởng “ không ăn được thì đạp đổ” hay câu nói phổ biến của thanh niên bây giờ “ không bẻ được hoa thì phải đập bình!” . Thật khủng khiếp . Puskin không như thế. Anh luôn cầu mong cô hạnh phúc. Tốt với cô,thì anh sẽ được bù đắp: rồi sẽ có người sẽ hiểu anh hơn thế !
Toàn bộ bài thơ có 47 từ (Tiếng Nga), trong đó có tới 14 đại từ, 10 động từ và 5 danh từ trừu tượng được dùng. Cắt nghĩa về sự “khô khan” này ở một nhà thơ vốn xuất thân từ quý tộc, và là người làm giàu ngôn ngữ Nga, người có hàng trăm bài thơ tình lung linh hình ảnh sắc màu khác, theo cách nào? Chỉ có thể hiểu đó là một dụng ý nghệ thuật; Hay chính cái tình yêu chân thành của ông đạt đến đỉnh, nên quay về cái “nhân bản” nhất để dùng lời bình dị, lời của đời sống không cầu kỳ hoa mỹ để nói cái thật nhất của lòng mình. Ở đây dường như tâm hồn ông đã viết và bàn tay nhà thơ chỉ làm công việc thư ký chép lại mà thôi. Sự chân thành .
Có một người đã  nhận định: con người ta sống thật khi yêu. Ở đây, Puskin đã yêu thật mãnh liệt.  Đấy còn là tình yêu cuộc sống, con người đất nước đến vô bờ ở chàng thanh niên tuổi ba mươi này .
Toàn bộ bài thơ có 47 từ (Tiếng Nga), trong đó có tới 14 đại từ, 10 động từ và 5 danh từ trừu tượng dược dùng. Cắt nghĩa về sự “khô khan” này ở một nhà thơ vốn xuất thân từ quý tộc, và là người làm giàu ngôn ngữ Nga, người có hàng trăm bài thơ tình lung linh hình ảnh sắc màu khác, theo cách nào? Chỉ có thể hiểu đó là một dụng ý nghệ thuật; Hay chính cái tình yêu chân thành của ông đạt đến đỉnh, nên quay về cái “nhân bản” nhất để dùng lời bình dị, lời của đời sống không cầu kỳ hoa mỹ để nói cái thật nhất của lòng mình. Ở đây dường như tâm hồn ông đã viết và bàn tay nhà thơ chỉ làm công việc thư ký chép lại mà thôi. Sự chân thành .
Sự trưởng thành ,chín chắn . Nghệ thật nổi lên rõ nét nhất và được sử dụng đắc địa trong thi phẩm là hệ thống tu từ về dấu câu và cú pháp. Pushkin đã dùng hệ thống dấu để tạo nên những câu thơ ngập ngừng, khác biệt với mạch trôi chảy trong bản dịch. Đó chính là cách diễn đạt bước đi của tâm trạng thi nhân ở mọi cung bậc : khi hồi tưởng, lúc bày tỏ, có lúc tự soi lòng mình... tuy nhiên dù ở cung bậc nào thì đối tượng hội tụ lại để khơi gợi thành tâm trạng ấy vẫn là “Em”.
. Đương nhiên như phân tích trên chúng ta thấy rất rõ vẻ đẹp của thi phẩm thể hiện ở những yếu tố nghệ thuật độc đáo. Bài thơ không hình ảnh, ngôn từ trong suốt như tấm tình trong suốt của nhà thơ vậy.


Nhưng không chỉ thế, việc sử dụng tu từ cú pháp  ở trình độ bậc thày và cách dùng từ “Em”, điệp ngữ “Tôi yêu em” như một giai điệu ngân day dứt suốt thi phẩm đã diễn tả được những cung bậc tình yêu của thi sỹ. Nhà thơ yêu thật và nói thật xúc cảm của trái tim yêu, bằng một thứ nghệ thuật ngôn ngữ sáng trong và mộc mạc chân tình như cuộc sống vậy. Sự thành công và cái cao thượng của Pushkin không phải ở câu thơ cuối cùng mà chính là ở chỗ ông dám nói và diễn tả bằng hình thức độc đáo cái tình yêu đẹp theo đúng nghĩa dù nó chỉ tồn tại ở một phía bằng một trái tim nhân bản.
 ( Dalat 2016 )






Bài 22 THỂ THƠ TỰ DO- THƠ SIÊU THỰC



                             
I.                  TÌM HIỂU CHUNG
1.     Thể thơ :
a.     Thơ tự do :  thể thơ không bị lệ thuộc vào những qui tắc của thơ cách luật  của một số thể loại thơ khác  (  thơ  Đường luật,thơ lục bát …), không bị ràng buộc  vào bất cứ  một  khuôn khổ nào (như số từ, số câu, vần, nhịp…). Mạch thơ có thể liên tục hoặc ngắt ra từng khổ . Cách gieo vần rất linh hoạt : vần chân, vần lưng , vần liên tiếp…  đều hướng vào việc bộc lộ cảm  xúc,  suy nghĩ, nhằm mục đích cuối cùng là làm  sáng tỏ chủ  đề .

b.     Thơ siêu thực : Cách gọi đúng nhất là “thơ  được sáng tác  dưới hình thức của chủ nghĩa siêu thực. Đây là một trường phái thơ ca xuất hiện ở Pháp sau cuộc chiến tranh thế giới lần I(1914-18) tập hợp một số thanh niên tiểu tư sản  trí thức  muốn thoát ra khỏi tư tưởng của  giai cấp mình .Họ muốn đi tìm một hiện thực cao hơn (siêu thực)để phủ định hiện thực trước mắt là xã hội tư sản . Trong lĩnh vực thơ ca ,chủ nghĩa siêu thực muốn đi tìm cái kỳ diệu .Người nghệ sĩ  thích sự hỗn độn,phi thường . Thơ ca phải được tuôn trào tự do , không cần sử dụng dấu chấm câu, không cần tuân theo trật tự ngữ pháp , đề cao sự liên tưởng  độc đáo của từng cá nhân. Vì vậy,chủ nghĩa siêu thường gắn liền với  thủ pháp ước lệ tượng trưng, với vô số hình ảnh được tạo ra bởi sự liên tưởng và xâu chuỗi lại của mỗi tác giả . Ở Việt Nam, Hàn Mặc Tử được xem là nhà thơ chịu ảnh hưởng của trường phái siêu thực-tượng trưng này .Về nhạc, nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn cũng được nhìn nhận có  nhiều ảnh hưởng từ chủ nghĩa siêu thực- tượng trưng .


2. Garcia    Lorca (1898 - 1936) một nhà thơ, nhà soạn kịch Tây Ban Nha, và còn nổi tiếng là nhạc công  họa sĩ. Chính  nước Mỹ luôn coi ông là  nhà thơ  vĩ đại của họ,sau Walt Whitman (1819-1892), mà Lorca từng chịu ảnh hưởng – dù thời gian ông sống ở Mỹ không dài,chỉ hai năm  . Ông bị sát hại  bởi bọn phát xít đã "ngửi" ra ngay, một nhà thơ "thuần túy" như Lorca không bao giờ qui phục chủ nghĩa phát xít, không bao giờ có chỗ đứng trong một chế độ độc tài. Thơ của ông là   biểu tượng của tự do và cái Đẹp, của dân chủ và nhân quyền, những điều hoàn toàn xa lạ và đối nghịch với chủ nghĩa phát xít
Thơ của Lorca có những đặc điểm sau :

-cấu tứ  :thơ ông chịu ảnh hưởng bốn thể  thơ : dân ca Tây Ban Nha, tinh thần và thể thơ ngắn trong thơ Haiku(Nhật ) và thơ Đường(Trung Ho,), phái tượng trưng  và phái siêu thực(Pháp ) huyền thoại Hy Lạp, La Mã
- nghệ thuật thơ : : ngữ lực (sử dụng ngôn ngữ khá bình thường, không cầu kỳ , trau chuốt ,rất ít các biện pháp tu từ , nhưng chứa  những suy tư thâm trầm, những cảm nhận nhạy bén ,mang đặc tính c ủa thơ Tây Ban Nha và thơ Tượng Trưng cũng như thơ Siêu Thực.) hay đối tứ (hai hình tương phản tiếp diễn để diễn đạt ý tại ngôn ngoại)láy   và đệm ( lặp một câu, một cụm từ, hoặc đoạn với mục đích bắt cầu)  để nhấn mạnh, gây ấn tượng
 3. Về bài thơ  Đàn ghi-ta của Lorca :-

a  Đặc điểm  : nhà thơ Thanh Thảo cố gắng đưa người đọc đến dạng thơ quen thuộc của Federico  García Lorca , Một bài thơ tự do, nhưng không hề có dấu câu, không viết hoa đầu giòng . Cả bài thơ có sáu khổ, các câu trong khổ số lượng từ  không cố  định, không có vần điệu,lại rất nhiều hình ảnh, khiến người đọc liên tưởng đến  những  bài thơ Haiku của Nhật mà Lorca chịu ảnh hưởng sâu đậm . Đọc từng khổ, chúng ta thấy các hình ảnh phải xâu chuỗi với nhau , bởi nhà thơ  Thanh Thảo  chỉ dựng lên những mối quan hệ rời ở mỗi khổ , buộc chúng ta phải liên kết lại, đó là cách viết ,cách cảm thụ thơ Đường mà Lorca cũng ít nhiều yêu thích và ảnh hưởng .Nhưng đó cũng chính là những nét độc đáo của  thơ siêu thực . Hình  ảnh thơ rất nhiều, mang nét văn hóa dân gian Tây Ban Nha

b  Hoàn cảnh sáng tác : Khi  tham gia kháng chiến chống Mỹ, trong ba –lô hành trang của người chiến sĩ có những vần thơ tình yêu , sự bất công trong xã hội, những nỗi trăn trở, bất an và đấu tranh nội tâm của nhà thơ  . Có lẽ con người tài hoa ở xứ Tây Ban Nha xa xôi còn  ám ảnh  anh chàng Hồ Thành Công (tên thật của nhà thơ Thanh Thảo )bởi  những vần thơ siêu thực –tượng trưng, một phong cách sáng tác thơ khá mới mẻ
 c .Bố cục :
-          2 khổ đầu : số phận thơ Lorca và con người nhà thơ
-          2 khổ  giữa : Hai khổ giữa của bài thơ chứa nghịch cảnh đau thương xảy ra có thơ ca  Lorca và văn hóa Tây Ban Nha nói chung
-         Hai khổ cuối đúc kết định mệnh Lorca  

II. ĐỌC HIỂU 
 1.Hai khổ   đầu :số phận  của thơ ca Lorca và  chính  bản thân ông   trước thảm họa phát xít.
Đoạn thơ mang màu sắc tự sự . Nhà thơ Thanh   Thảo đang dựng lên trước mắt chúng ta phần mở đầu    số phận  của thơ ca Lorca và  chính  bản thân ông   trước thảm họa phát xít. Hai đối tượng này như  hòa làm một. “  Tiếng   đàn bọt nước” là  hình ảnh bất diệt về thơ  Lorca nói riêng và cuộc đời  . Bọt nước lúc hiện lúc tan, nhưng tan rồi lại hiện, không  thể bị tiêu diệt..  Đất nước Tây Ban Nha,thơ Lorca, con người ông , cũng  vậy. “ Áo choàng đỏ” là hình ảnh gắn liền với lễ hội đấu bò truyền thống với nhữ ng kỵ sĩ bảnh bao, khoác trên vai tấm áo khoác  đỏ rực như lửa là nét văn hóa dân tộc  luôn  khiến  ông xúc động . Cụm từ « li-la li – la li-la »  được xem là một câu thơ độc lập ở đây và kết thúc bài thơ có hai tầng ý nghĩa . Đó là một chuỗi  âm thanh, . “Li la” gợi ta nhớ đến âm thanh của đàn ghi-ta khi người chơi vê ngón, nó lặp lại và kéo dài thành chuỗi “li la li la li la”.  Ở đây, hãy chú ý nghĩa này : tiếng đàn .            Chiếc đàn ghita  là biểu tượng đẹp đẽ của đất nước,con người Tây ban nha,  cũng là nét ẩn dụ chỉ Lorca . Hình ảnh “áo choàng đỏ ” hoàn toàn đối lập với “áo choàng đỏ gắt” trên kia , một yếu tố hoán dụ . Bản thân Lorca( là  áo choàng, là tiếng đàn bọt nước ) cũng gặp cảnh ngộ vô cùng nguy  hiểm ,mà chàng ngơ ngác ,như người mộng du . Còn “ vầng trăng, yên ngựa” , đó là   những hình ảnh trong thơ Lorca (vầng trăng đỏ, yên ngựa đen ) cũng là thơ Lorca . Trước đó, nhà thơ đang ở Mỹ .Ông về quê hương ở vùng Gra-na-đa , bị bắt và bị  đưa ra pháp trường .
 2. : Hai khổ giữa của bài thơ chứa nghịch cảnh đau thương xảy ra với   thơ ca  Lorca và con người ông
Màu sắc nâu, xanh hàm chỉ đất trời, là quê hương của nhà thơ. « Cô gái  ấy » là nguồn thơ tình yêu ,chiếm một dung lượng lớn trong thơ Lorca . " Tiếng đàn bọt nước" một lần nữa hiện lên, cách thức láy đầy dụng ý của Thanh Thảo , nhấn mạnh  về số phận của  Lorca, tài năng   thi ca của Ông. Nguồn cảm hứng nghệ thuật ( quê hương,tình yêu)   ý nghĩa nghệ thuật ( tiếng đàn bọt nước )  đang  có nguy cơ bị hủy diệt,  nhưng trong cảm nhận của Thanh Thảo, tất cả đều bất diệt . Đất nước Tây Ban Nha,thơ Lorca, con người ông , cũng  vậy . Có thể hiểu  Thanh Thảo muốn ngợi ca dòng thơ tình yêu của Lorca , thơ quê hương,nhưng  dòng thơ cùng thơ ca đất nước đang bị hủy hoại bởi gươm giáo,súng đạn.
Bốn câu tiếp theo của khổ thứ tư nêu lên bi kịch của văn học Tây Ban Nha và cả của Lorca : không ai chôn cất .  Ngôi mộ Lorca bây giờ trong nghĩa trang chỉ là mộ gió. Người ta đã không bao giờ tìm được hài cốt nhà thơ. Vầng trăng ở đây, nếu mượn thơ Hàn Mặc Tử ,là nỗi đau thương . Giếng không  hề có ý nghĩa là nơi xác nhà thơ Lorca được tìm thấy ,mà có thể Thanh Thảo muốn nói đến cội  nguồn nước đau sâu thẳm nhất trong lòng tác giả và chúng ta,những người trẻ đọc và yêu thơ ,cả cuộc đời Lorca
-         3. .Hai khổ cuối : đúc kết định mệnh Lorca  


Hai khổ cuối đúc kết định mệnh Lorca  : đường chỉ tay và lá bùa .Đường chỉ tay thì đứt, lá bùa bị ném đi. Đời người như một dòng sông, nhưng Lorca  không thể đi hết thời gianvà không gian.  Anh chỉ có  thể «  bơi sang ngang » thật ngắn ngủi . Con   đò tiễn  biệt  là người bạn hay chính  đất nước  đau thương, một chiếc ghi ta màu bạc . Hai khổ cuối, kỹ thuật đối tứ là sự liên kết,tiếp diễn , thương cảm cho bi kịch Lorca . Lorca mãi mãi ra đi , bất ngờ, bởi đường chỉ tay và lá bùa dường như báo trước một định mệnh trái ngược . Tác giả tỏ thái độ căm giận bọn độc tài phát xít Franco tàn độc, mù quáng,quyền lực tăm tối . Chủ nghĩa siêu thực muốn đi tìm cái kỳ diệu ,Người nghệ sĩ  thích sự phi thường  . Sự  kì diệu ấy chính là tài năng và con người bất tử của Lorca .
 Thanh Thảo cố gắng đưa chút hơi hướm thơ Lorca vào bài  thơ của mình, như một giòng tưởng niệm về một thiên tài thơ ca ,cuộc đời vô cùng đẹp đẽ . Ta thấy ngoài kết cấu thơ Haiku,chuỗi hình ảnh cần liên kết của thơ Đường, còn một số yếu tố mang phong cách Lorca , chẳng hạn những kỹ thuật đối. Cả sáu khổ thơ, ta thấy Thanh Thảo sử dụng lối đối tứ rất hay . Hình tượng  đang “hát nghêu ngao” hoàn toàn đối lập với hình ảnh “  bị điệu về bãi bắn” ,hay bốn câu trong khổ ba “ tiếng ghi ta ..vỡ tan” thật bất ngờ với hình ảnh “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy ”. Đằng sau kỹ thuật đối tứ ấy là nỗi đau thương, niềm xót xa cho cuộc đời và thơ của Lorca .
 Nét độc đáo của thơ siêu thực thủ pháp ước lệ tượng trưng, với vô số hình ảnh được tạo ra bởi sự liên tưởng và xâu chuỗi lại.
Ở đây, Thanh Thảo đã vận dụng  kỹ thuật láy và đệm  ra sao ? Cụm từ « tiếng đàn ghi ta ,chiếc ghi ta , cả nhan đề  được nhắc  tới  chín lầ n ».  Câu li-la-li … là  kỹ thuật láy  . Tất cả đều ca ngợi ,tiếc thương cung đàn, hay thơ Lorca,con người Lorca
          Phải coi thơ là cái đến với ta đầu tiên và còn lại sau cùng. Nó có thể giải tỏa cho con người bao nhiêu nặng nề, đồng hành với con người qua bao nhiêu trạng huống của cuộc đời.  Những vần thơ yêu thương con người và cuộc đời, ấp của cả máu và tài năng của Lorca đã cho nhà  thơ  Thanh Thảo và chúng ta có một niềm tin vào cuộc sống .
    
 Câu hỏi :
1. Tìm hiểu về Garcia Lorca :  thân thế, sự nghiệp, phong cách sáng tác ( một nhà thơ yêu nước, dùng thơ văn để bảo vệ nền văn hóa dân tộc , phong cách thơ rất độc đáo: chất dân tộc, học tập lối sáng tác thơ Haiku của Nhật, lối bắc cầu của thơ Đường,  phương pháp siêu thực tượng trưng của thơ Pháp )
 2. Bài thơ  Đàn Ghi Ta của Lorca :   tiểu sử Thanh  Thảo,  thời điểm sáng tác , thể thơ, những yếu tố phỏng theo phong cách Lorca , mục đích sáng tác ,  giọng thơ .

 ( Dalat  tháng 7.2015 ) 
    .