Tuesday, September 12, 2017

ngôi nhà màu trắng (p2)

                       NGÔI NHÀ MÀU TRẮNG …( phần 2 )
               Lũ chúng tôi thường chọn “đi tắt” con đường này để đến trường vì còn một lý do nữa:ở đây có một người rất yêu diều sáo. Chiếc diều to dài  có thể đặt lọt vào mặt ghế trường kỷ  nhà ông Cửu Miên, phết bằng loại giấy để bọc xi măng( trước đây  mỗi bao đựng xi măng có tới sáu bảy lớp giấy vàng ố, dày và dai bền, gọi là giấy xi măng ). Giây thả diều cũng là một loại cước bền, hẳn kết lại từ năm sáu sợi giây câu. Nhưng chúng tôi ngẩn người trước chùm sáo gồm  năm đốt tre phân đều từ dài đến ngắn,  đặt vào giữa lòng chiếc diều . Đó là những  đốt tre nhỏ và già, được đẽo gọt rất  công phu, được đánh bóng nhẵn . Điều khéo léo đến tài tình là chủ nhân phải biết tính toán làm sao để những gió thổi có thể lọt vào, tạo ra chuỗi âm thanh êm êm không dứt . Cứ sau dịp lễ Giáng sinh, khi hoa dã quỳ nở vàng khắp xóm thôn,báo hiệu một mùa nắng đẹp nữa sẽ lại về, thì bất chợt một trưa vắng,  bỗng có tiếng u u ngân nga vang lên, không dứt, không ngừng nghỉ, kéo dài đến chiêù, đến tối, đến tận đêm khuya,đến sáng hôm sau, lại sau nữa, sau nữa, như một bản đàn  được hằng trăm con người vô hình tấu lên, cứ người này ngừng thì người kia tiếp . Chiếc  diều mang chùm sáo như hai cánh chim, hay như một chiếc lá chao động giữa trời cao quê tôi. Tiếng sáo đưa tôi đi học, dẫn tôi về nhà,ru tôi những giấc trưa nồng, đêm đêm thức cùng tôi bên trang vở, ngọn đèn , dẫn tôi vào cơn mơ đẹp . “ Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”là một biểu tượng rất ý nghĩa về chốn quê hương thanh bình và cả một vùng trời tự do  của người chiến sĩ cách mạng, in sâu vào tâm hồn chàng trai Tố Hữu khi ông cảm nhận cả thế giới bên ngoài từ chốn ngục tù. “Đôi  con” còn có thể hiểu là nhiều con, cánh diều quê tôi thật lẻ loi nhưng mạnh mẽ. Khi bắt đầu được phóng lên, cánh  diều cũng vật vã  giữa từng không để  tìm cho được hướng gió . Những tháng ngày sống xa Dalat, mùa xuân ở Đồng Nai, ở thành phố Hồ Chí Minh là những ngày ngột ngạt, oi bức, nhưng chợt chỉ một giây lặng yên nào đó,tôi như nghe tiếng sáo diều u u mời gọi,và nhìn lên cao, tôi như bất chợt   bắt gặp một chấm đen rất bé, rất nhỏ, rất xa. Tôi bỗng nhớ nhà, nhưng cũng bỗng thấy lòng mình dịu lại, giữa bao bộn bề .
  Bà cụ Đồ đã đi xa, người yêu sáo  diều ngày nào cũng thế. Dãy nhà  ven đồi thôn bên kia làng tôi vẫn còn vài cây ngọc lan,  thỉnh thoảng tôi lại có dịp đi qua . Tôi có một người bạn dạo về công tác bên huyện Xuân Lộc của tỉnh Đồng Nai,nhà vẫn số 16 đường Xô Viết Nghệ Tĩnh,  tôi   chọn lối đi bộ nên lại “ đi tắt” đúng nghĩa qua con đường tuổi thơ, băng qua những vạt vườn vẫn dâu và hoa, thay vì đạp xe qua lối Nguyễn Công Trứ . Ngọn đồi một thời là nghĩa trang thành phố được cô bạn ví von là núi Chứa Chan của miền Đông Nam bộ, nơi Hương, tên bạn ấy, cũng bao tháng ngày gắn bó. Một chị đồng nghiệp làm dâu gần bên nhà ông Sắc, đôi khi   chúng tôi cũng tìm thăm nhau . Khoảng sân nhà chị ngày nào có thể từ  đấy trông sang mép hiên trước phòng mẹ  tôi, bây giờ đã khuất sau tòa nhà màu trắng to đẹp  rồi.Đứng  bên mấy chậu xương rồng hoa nở quanh năm, trông qua thấy rất rõ băng ghế  đặt sẵn ở đây, là nơi cha tôi và ông Sắc trò chuyện giờ giải lao, hay những buổi trưa chủ nhật, ba con nhóc Vĩnh, Hoa Tre và tôi ngồi đấy, dùng chiếc kẹp ba lá cạo vỏ những củ cà rốt còn sót lại ở vườn, chấm muối ớt, bàn… chuyện đời, để tránh các chú đang nghỉ ngơi ở   hiên bên kia .Có lúc cùng tập hát bài “ Học sinh là người Tổ Quốc mong cho mai sau”. Nhưng họ vẫn nghe  được .  Vĩnh  bị  trêu “ học sinh gì mà  mập ú như con heo quay”, trêu tôi “ học sinh mà lại dẹt lét như con tôm khô”,còn Tre vì nó ngổ ngáo, thường mặc một chiếc áo vải ca rô rất dày, đủ màu xanh đỏ, vốn là áo người lớn ở đống đồ bán xôn, hồi ấy gọi là hàng viện trợ , được các cô Mười Út sửa lại,có mấy túi to, hai tay và vạt đều rộng rãi nên các chú,có cả anh Đanuýp xanh nữa, lại ngân nga “học sinh cao bồi( hay  học sinh Sài gòn) - Tre nói giọng Nam Bộ - mặc áo sơ mi ca rô”.Thật lạ lùng, Tre cũng có liên tưởng như tôi, nó đang ư ử Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao lớp lớp quốc dân tranh đấu hy sinh cho nền độc lập… Chúng tôi đang cùng nhớ đến một người . Chị đồng nghiệp  bảo giờ muốn thấy rõ giàn đậu của tôi, phải chạy ra tận ngõ ông Bồng, mà nay cũng là những mái ngói tím lịm, dịu mắt, thay cho chập chùng tre trúc thẫm xanh ngày nào . Chị là cô giáo dạy Sử và từng chủ nhiệm Hoa Tre. Khi chúng tôi đến thăm,  câu chuyện từ tòa nhà màu trắng bỗng là nguồn mạch cho  những đề tài về bờ giậu, cổng rào .Tre bảo nếu không có nếp nhà chữ L với một gian đầu hồi nhà nhìn ra cổng, thì  không thể tìm ra nhà cô giáo cũ,  vì quanh đây, nhà nhà đều có cổng, có sân riêng . Chị L, cô giáo của Tre cười,  cuộc sống làng lên phố là thế, ngay cả những nhà trông ra vườn và đang làm vườn. Bà Giang Đu Đủ bỗng nhớ đến Nguyễn Công Trứ, nhà thơ đồng hương của mình  từ một câu phú rất nổi tiếng “đêm năm canh yên  giấc ngáy o o, thời thái bình cửa thừơng bỏ ngỏ”,khiến ký ức tôi  luivề miền Phú Quảng ngày nào . Ở đây có những nếp nhà tranh rất mới, có nhà vừa dựng và lợp mái tháng trước, tháng sau đã  lợp lại vì cả nhà bị hỏa hoạn.Bốn  bức vách kín, không cần cửa sổ, chỉ hai tấm liếp, một hướng ra ngoài ảng nước từ bếp, một hướng ra sân, vừa là phên che nắng .Không cần ổ khóa, nếu sợ gió thổi  cuốn đi đồ đạc trong nhà hoặc chó mèo vào cắn phá thì chọn một sợi giây mây cột chéo hai bên mép là xong .Khách đến nhà nếu chủ đi vắng, cứ  việc  chống liếp lên cho mát và thoáng, rồi nằm lăn ra chõng tre ngủ một giấc, chờ chủ về .Khát thì cứ việc lại ấm trong bếp rót uống,  đói thì mở cái nắp đậy vài ba cái nồi treo tòong teng trên những chiếc gióng mây dài từ nóc nhà xuống, để tránh gián bọ hay gia súc lục lọi, trong đó luôn có mớ bắp hầm chín hay vài củ khoai sắn luộc,hay lại góc nhà,sau mấy lớp lá chuối khô phủ sơ sài, có thể bắt gặp một buồng chuối dựng ở đó,đã có vài trái chín bói, đôi trái vàng ngọt. Nhà khá giả  ngoài chõng tre thì có những  rương gỗ, vừa là va li,và là giường, khách cũng có leo ngồi chơi, nhưng đừng táy máy lục lọi dù rương không khóa. Bên trong chỉ có giấy tờ và áo quần mà thôi. Còn đa phần thùng chứa dầu hắc được xem là tủ của nhiều nhà. Đựng nước, đựng lúa . Tôi đã có lần thăm nhà một học sinh bị cháy. Đám bạn  trong trường rủ nhau đến giúp dọn dẹp, chìa cho tôi một bẹng ( mẩu lớn ) cốm chín vàng giòn thơm, đứa  khác trao cho tôi một tô nước lạnh. Đó là lúa để dành bị cháy. Cả ngày hôm ấy bếp cơm tập thể thừa suất trưa và tối. Tôi ra giếng gánh nước,  mang theo chiếc chìa khóa có cột một sợi giây và cục đá. Giếng trường được nhà trường thuê người nạo vét từ năm tôi vừa đến, sau đó thì họ sinh phụ các thầy dọn rửa những buổi lao động, luôn khóa kín.Mới thấy rằng chúng tôi chỉ đến để mà đi, nên tự lòng đã tạo ra “tòa nhà trắng” cách ngăn. Chị L bảo chứ vua An Dương Vương cho xây thành kiên cố , rồi thành nhà Hồ, thành nhà Mạc, thành nhà Nguyễn,  chính là bảo vệ dân, thì người dân từ xa đến họ cũng xây  cho nhau những bức thành vô hình để  bảo vệ nhau. Ở vùng Phú Quảng ấy, khu Nam Đường , đối diện với trường  tập trung hầu hết người gốc Quảng Nam,  còn Bắc Đường thì đi đâu cũng gặp người của ông thầy Hương, cán bộ bổ túc văn hóa xã, rặt giọng Quảng Trị.
 Bây giờ, mỗi ngôi nhà là một bức thành rồi . Bốn năm về vùng đất của người miền Trung Ngũ Quảng giữa núi đồi miền đông Nam Bộ, tôi lại như đặt bước chân mình qua “con đường tắt” thuở học sinh trường làng, cứ nhà này sang nhà khác, không cần gọi cổng và cả gọi cửa . Có lần tôi đến viếng một nhà học sinh  lúc chiều buông, hy vọng  sẽ kịp gặp   phụ huynh từ rẫy về .Vừa chống được cái liếp lên, bỗng nghe ngào ngạt một mùi thơm ngày giỗ : múi cà ri. Đó là mùi thịt nước xương heo được ninh nhừ, pha với mùi khoai củ, mùi nước dừa, cái món cà ri độc chiêu mà tuổi thơ chỉ biết mỗi khi nhà vào giỗ chạp . Mùi thơm ấy đã kéo bước chân tôi  xuống bên khu bếp tro  đăngg sau nhà, suýt nữa thì vấp phải khoanh củi to và dài, có một đầu chặt lam nham,  đầu kia vùi trong  tro,  đó là dấu hiệu bếp đang có than nóng. Mùi thơm  khiến tay tôi ngập ngừng trên cái nắp đậy một cái nồi to đầy khói đen, cái nồi thường dùng để luộc khoai bắp và tôi đã mấy lần được mời bốc bất cứ củ  trái nào mình thích từ trong nồi .
             Tôi chợt nhớ ra nãy giờ không  thấy bóng dáng con chó Vàng nhà này đâu cả . Hay là …? Chà, cái nhà thằng bé này !         Tôi bê một ca nhựa đầy nước ra mép hiên , thong thả ngồi bệt xuống đất , nhấp những ngụm nước mát lạnh, bỗng thấy bụng đói cồn cào . Chiều chủ nhật  buồn, ngồi bên một mái nhà tranh, ôi tiếng hát thiết tha của một buổi chiều… Bạn bè đang thưởng thức những món ngon của phố thị, còn mình thì ngồi  đây  . Ở thôn tôi, hàng xóm có  một người rất giỏi chế biến thịt cầy, đôi khi cũng giúp “ hóa kiếp” một con mực,  con vàng  già lão của nhà tôi , chỉ có một món duy nhất là kho ngọt ăn với cơm, tôi thấy các chú kéo nhau lên  đi tìm lá quýt, còn mẹ tôi nhờ người mua thêm ruốc, đường, chuẩn bị một chai nước mắm ngon . Những con vật ấy ngày ngày quấn quýt bên tôi, vì tôi có nhiệm vụ cho  chúng ăn, lót chuồng mùa mưa gió, hay đêm đông lạnh lẽo nên , hôm ấy tôi bê cơm vào buồng, ăn với tương kho sả và rau luộc.  Có lẽ tôi nên ra về . Tôi đứng bật dậy , phủi  đất bụi trên áo quần, đeo chiếc túi vải lên vai.


   Bóng người thấp thoáng  và tiếng lao xao vang lên   sau hàng cây lá chua  làm bờ rào, mà bây giờ người ta lại đặt cho nó một  danh từ  rất hay : hoa ắc-ti-sô đỏ . Vợ chồng chủ nhà và cả gia đình vừa từ rẫy về. Trong những bộ quần áo lam lũ, họ kẻ vác thanh củi to, người địu một gùi măng, có người tay ôm một bọc  bún tươi gói trong lá giẻ tỵ, người xách xâu bánh tráng, tay kia có một cái chai chứa chất nước tim tím, rượu nếp than .Không kịp nữa rồi, chắc chắn mười mươi tôi sẽ phải làm  một vị thực khách quan trọng . Tôi sẽ nhón nhén món bánh tráng nướng, ăn một chút bún, nói rằng mình… đang bị đau bụng . Tôi đến để gặp phụ huynh một đội viên, xin phép cho em này được đi tập huấn công tác đội mấy hôm trên  tỉnh cuối tuần này,  ảnh hưởng lớn đến  việc nương rẫy  .
 Tôi đành phải ngồi vào một chiếc bi củi làm ghế đặt hai bên mép bàn tre, trước mặt một tô bún nóng hổi thơm mùi cà ri. Cà ri voi !Mấy hôm rồi ở trường chúng tôi cũng nghe tin có một chú voi già  bị sập bẫy heo rừng và bị thương rất nặng ở tận bên kia sông . Một buổi liên hoan đơn sơ, nhưng khiến lòng tôi , cô giáo trẻ xa nhà giữa chiều hôm, về trường lủi thủi  một mình bên bếp vắng trong mái tranh khu tập thể , bỗng bồi  hồi . Tôi   đang nhớ đến không khí ngày giỗ  ở nhà mình, thường vào giáp tết. Mẹ tôi có đông con gái, con dâu, đó là những đầu bếp tài ba, tôi tự giác nhận công “ giữ em, đập  chó, lấy củi” hệt như  cảnh ngộ cuả anh chàng Củng trong  tiểu thuyết “Quê Nội” của nhà văn Võ Quảng . Món cà ri ở đây không có khoai tây và rốt, nhưng bù lại,  những miếng  khoai lang,  khoai sọ rất bùi. Rau sống không có những cọng xà lách  mỡ màng, mà là bắp chuối, thân chuối non, giá đỗ… vẫn giòn rụm trong miệng. Thấy cô giáo chân thành và cảm động, chủ nhà rất vui. Khách ra về còn được tặng thêm hai miếng da voi to, trông  như hai thỏi xốp kếch xù  dùng để cắm  hoa , được xỏ bằng một sợi giây lá chuối khô, cứ thế mà xách cùng một  xâu măng tươi. Măng sẽ dành cho bếp tập thể và thứ hai, còn những miếng da voi, như chị chủ nhà bày vẽ cẩn thận, tôi sẽ mang về  Dalat tặng mẹ để  bà vỗ béo đàn heo. Trong dịp hè ấy,  cứ mỗi bận nấu cám, mẹ tôi lại thòng miếng da voi vào nồi cám sôi sung sục trên bếp, rồi cất đi khi cám chín. Miếng da cứ  nhỏ dần, đàn heo hình như có vẻ… béo ra . Ba vị con trai cuả mẹ,  kẻ có nhiều năm nghiên cứu về heo gà, kẻ đã từng xắn tay áo thực hành,  tỏ ra hơi nghi ngờ . Nhưng những lời họ nói tôi không hề nhớ, cũng chẳng tự ái . Mẹ  tôi rất vui, gặp ai đến thăm đàn heo cũng khoe: có miếng da voi con Xí hắn na từ tận Định Quán về …
  Nếu chủ nhà hôm ấy   cũng cửa đóng then cài, kín cổng cao tường như hôm nay, tôi chẳng bao giờ có cơ hội được thưởng thức món cà ri voi và  biếu tặng mẹ món da voi. Tôi cũng được ăn món thịt nhím  rim, thịt cầy hương kho mặn. Món thịt nhím khiến tôi nhớ da diết  những bữa nhà có tiệc vào  ngày mưa, con cháu về đông đủ, tôi được nhận vài món quà để học tập, mâm cơm  với những  dĩa thịt vịt bầu, vịt xiêm tú hụ, có cha có con, có chủ  có tớ, ồn ào, vui vẻ,đầm ấm. Món cầy hương thơm lừng  lại như nhắc tôi, dù sống ở phương nào, thì “nơi nao dừng chân, chốn ấy quê nhà” .
                       (còn nữa )


No comments:

Post a Comment