Tuesday, September 12, 2017

NGÔI NHÀ MÀU TRẮNG (P1)

                          NGÔI NHÀ MÀU TRẮNG …( phần 1 )
 Tôi đặt hàng, đặt nhật báo Tuổi  Trẻ qua mạng, mấy lần  phải chỉ nhà loanh quanh. Nhà bà số 41 mà 41 nào? Có tới ba nhà số 41 lận. Nhà tôi dưới chân đình Nghệ Tĩnh .Con đang đứng chỗ nhà văn hóa làng hoa Hà Đông,  họ bảo  đây thuộc khóm Đông Tĩnh… Ôi, vậy anh chịu khó qua trường Phù Đổng, đi hết đường Lý Nam Đế , rồi đứng lại trước nhà hàng tiệc cưới Thảo Nguyên nhé, tôi sẽ ra đón. Có hôm tôi đứng trên hiên, luýnh quýnh chỉ đường  như thế thì  có hai  cô bé sinh viên mang quần áo đi phơi bảo tôi như trách cứ ,sao bà không  đăng ký rõ cho họ biết nhà mình gần đình , lát sau  lại  bày vẽ bà cứ nói ngay chỗ tòa nhà trắng mới xây đầu đường Lý Nam Đế, lên một đoạn đường đất là tìm ra. Con đón xe về Phan Rang nói vậy mấy lần, họ hiểu ngay.
  “Tòa nhà trắng mới xây” là ngôi là lầu ba tầng  đồ sộ  vừa được dựng lên trên mảnh đất  rộng sát bên vườn nhà tôi, mới hôm nào bà ĐuĐủ và tôi quảy quang gánh ra đây nhặt  phân bò về bón cho giàn đậu ngự . Vườn đã bị bỏ hoang khá lâu, từ khi người chủ qua đời và anh con trai độc nhất của ông bán đi .Hình như cả ngôi nhà ông sống mấy chục năm liền bên khóm Đông Tĩnh (ấp Hà Đông trước đây )  cũng đã có chủ khác . Tôi luôn nhớ hình ảnh một người đàn ông tuổi ngũ tuần, dáng tầm thước, trang phục luôn tươm tất như  các viên chức bình dân,  trong  đó có cha tôi mỗi khi ông phải lên Khu phố Đệ Cửu ( ủy ban Phường Tám bây giờ )làm việc, áo blouson kéo phéc mơ tuya tận cổ, quần tây phẳng phiu, xăng đan da . Ông người Hà Nội, có nhà bên ấp Hà Đông, nhưng được phân chia vườn bên ấp tôi .Ông cũng thuê nhiều người làm công, và có lẽ do ông sống độc thân nên  tất cả các chú, các chị  đều thuộc dạng hưởng lương ngày ( công nhật ) , sáng đến vườn , tối ai về nhà nấy, buổi trưa nhiều người mang cơm theo. Ngày nào ông cũng đến chơi nhà tôi,ngay khi mọi người đang vội vã ăn cơm sáng để ra vườn. Ông rít một điếu thuốc lào, tợp vài  hớp  nước chè xanh, rồi hấp tấp sang khu vực vườn mình .Ông không hề mó tay vào việc gì,  chỉ đứng trên bờ chỉ huy, nhưng vườn luôn trúng vụ . Giải vườn rộng từ ngang sân nhà tôi đến tận suối  cũng trồng toàn lê-guym ( rau củ ) thay vì hoa các loại và dâu như  lối trồng trọt bên thôn ông, có lẽ ông muốn “nhập gia tùy tục”.Mà đúng như thế, một năm xuân thu nhị kì, khi làng tôi  cúng đình, ông có chân trong ban tổ chức, chịu trách nhiệm mời gọi những người trong ấp ông , người cùng quê ông đã chuyển vào canh tác và sinh sống trong vùng Đa Thiện sang tế lễ  .Ông nói nhiều, luôn cười tươi, chưa bao giờ  thấy ông  quát tháo mắng mỏ ai . Cho đến khi ngoài tuổi năm mươi, ông  mới lập gia đình , một chị  y tá trên bệnh viện. Người phụ nữ  phố thị ấy chúng tôi chỉ gặp đôi lần, mỗi khi bà tạt qua vườn lấy rau vào thời vụ .
      Bây giờ thì tên gọi “ vườn ông Sắc”  đã được thay bằng một tên khác .
      Mảnh đất thật rộng, có thể đem đặt tất cả mấy ngôi nhà của các anh em chúng tôi   vào đấy,  giờ sừng sững một tòa nhà ba tầng  với vô số phòng lớn,  maí lợp ngói tím ấm áp, bờ rào gắn kính thủy lực trong suốt, có thể  nhìn rõ hàng hiên  rộng chạy quanh nhà, những bụi cây cảnh bày khắp sân vườn. Nhưng bây giờ từ sân nhà tôi nhìn xéo sang  để phóng tầm mặt được xa  hơn , sân trước đã có dãy nhà trọ án ngữ ,bây giờ là tòa nhà mới toanh này .
    Hôm nào chúng tôi ra đây nhặt phân bò, một ngày nắng khô hanh giáp tết , nhân bà Đu Đủ rảnh rang và đàn bò đi vắng  . Dù đã trùng trình vài hôm để chờ phân khô đi trong  nắng gió, nhưng vẫn có nhiều bãi còn tươi và hăng mùi cỏ nằm khuất  dưới đám rễ cỏ già . Những thỏi phân màu xanh mốc, tròn và cứng như những viên thuốc tể cực lớn,  hay những tảng  bèn bẹt và to như hai chiếc dép người lớn, chỉ một lần  dùng chiếc bay của thợ hồ và cái hốt rác bằng nhựa tùa và hứng, thế là có thể tính bằng một góc rá ngô khô . Con chó Na rất giỏi, nó đánh hơi  và suả to vài tiếng khi phát hiện ra kho báu.  Còn con Mum như giành  công với chúng tôi, có khi đã đổ vào thúng,nó lại bươi ra .Mấy con con chó đực ở bên  khu nhà cô Bi, con gái ông Cửu Miên,  cũng chạy sang nhập bọn. Chúng đuổi nhau   qua những bụi sim dại, cắn nhau kêu ăng ẳng. Cứ ngỡ chỉ có hai chúng tôi giữa khu  vườn hoang vắng vẻ, không ngờ lại ồn ã . Giang dùng bay gõ lên đòn gánh, hát theo điệu hô lô tô   trong hội  chợ Tết : Thì ra con  mấy, con mấy này đây. Thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ, thợ hốt cứt bò thì  ăn con mấy, con mấy nàng Xi…í … ta . Xita là một nhân vật trong sử thi Ramayana của Ấn Độ. Dạo này trên truyền hình phim Ấn được chiếu nhiều, hai phụ nữ luôn “kề vai sát cánh” với tôi   theo dõi đến mê mẩn. Chị Nhụy bảo Giang, nếu  người ta có tuyển diễn viên đóng thế, mi  đi thử vai coi .Giang có làn da ngăm ngăm mịn màng, mũi rất cao , mắt to đen, đúng là chị Nhụy có tầm nhìn của một  đạo diễn . Xita là bà ấy  .Da  Tre trắng hồng  như  người siêng trang điểm , với Giang, là do thượng đế khi nướng cục bột  Hoa Tre   non lửa quá,  còn bà ta   lại do ông ấy ngủ quên, để quá giờ hẹn . Tôi là kẻ may mắn, được nướng “ thơm ngon vàng giòn”. Có dạo tôi bị sốt, mặt mũi đỏ ửng, nóng bừng, bà này đùa, bữa nay ông trời bôi tương nướ ng mi hả , ngon quá ! Về chuyện vườn đậu,  tôi nhớ  đã bảo: thì  chia mày một  nửa giàn đậu đó. Giang rất thích ăn đậu ngự nấu xôi, hay hầm với xương heo  cùng  các loại củ .
   Không gian hôm đó thật yên vắng, nếu không có lũ chó rượt đuổi nhau, hay thỉnh thoảng vài chiếc xe gắn máy chạy qua, chúng tôi nghe rõ tiếng người gọi nhau từ dãy nhà nép mình dưới chân đồi  ở bên thôn láng giềng . Con đường Lý Nam Đế bao đời là một đường đất ngăn đôi hai làng. Những khu vườn ven đường đã “lên phố” với những cửa hàng, biệt thự,nhưng những nếp nhà lưng chừng đồi, dù đã được sửa sang kiên cố hơn xưa, nhìn xa vẫn không mấy thay đổi . Bây giờ lại gần  mới thấy khác .Còn bóng một vài cây hoa ngọc lan lá xanh thẫm suốt bốn mùa,  hoa búp trắng thơm nồng nàn, khoảng sân hẹp, nhà này sang nhà kia chỉ một bước chân, nay đã có giậu rào, cổng chắn, như bên thôn tôi vậy.Nhưng vẫn còn một con đường chạy quanh các nhà, vừa là sân, vừa là đường làng, nay  giữ trọn vị trí thứ hai, bên thôn tôi thì bỗng “ gần nhà xa ngõ” lâu rồi .
 Ngày bé chúng tôi đến trường Trung Bắc không chịu theo con dốc Lý Nam Đế  bây giờ,gọi là dốc bà Liên ( vì nhà bà có vườn ngay sát dốc ) mà  len vào đây, gọi là đi tắt, nhưng thực sự lại lòng vòng xa hơn .Qua nhà bà Quynh này, nhà ông Võ này, nhà ông Lý này, nhà ông Bái chủ tịch khu phố này, nhà bà cụ Đồ này,  rồi rẽ sang tay  phải, gặp ngôi đình làng nép mình dưới hai gốc ngọc lan xanh um tùm,  hương hoa ngào ngạt, chỉ nhận ra nhờ những hàng cột sơn đỏ và những câu đối chữ nho màu đen, ngoài thềm có hai con nghê đá, rồi qua nhà chị Gái, nhà ông Sắc, hàng xóm với vườn nhà tôi, đến nhà ông Việt có ba chị cùng độ tuổi và rất thân với chị Nhụy của tôi, một chị lớn, hai chị song sinh, đến nhà ông Uyển, thế là đụng cổng trường . Nhà chị Gái góa bụa có mở một quầy tạp hóa nhỏ, bán nhiều món hàng phục vụ cho lũ học trò : những viên mực nho nhỏ như viên  thuốc trị chứng cao huyết áp bây giờ,những tờ giấy thấm ( để nét mực chóng khô, không bị lem hoen ra )những ngòi viết   lá tre ( để viết nét đậm nhạt ) ngòi lá chuối ( viết nhanh), những cuốn vở dạng rẻ tiền, có bìa mỏng, giấy xấu,thế  mà bọn tôi rất thích, vì  mặt bìa in những thiếu nữ mặc áo dài “thả eo” ( không mặc áo len như các chị quê tôi ), tóc dài, yểu điệu, bên dưới ký tên Lê Minh, hẳn là   hoa sĩ,mặt cuối  hiếm có cuốn vẽ in bản cửu chương, kẻ sẵn một cái khung để người dùng viết thời khóa biểu, mà là những câu chuyện ( mãi về sau này tôi mới biết là truyện thơ dân gian ) được tóm tắt cực kì ngắn gọn mà  đầy đủ. Cả một tác phẩm đồ sộ được minh họa trong số mười mấy khung vẽ sống  động, bên dưới được chú thích bằng hai câu lục bát rất cụ thể . Tôi nhớ mãi hai câu “ Tào Thị độc ác tinh ma, tay đánh miệng chửi hành hà Nghi Xuân”( nhiều đứa tinh nghịch sửa thành Thị Xuân khiến tôi khổ sở bôi đi gôm lại mấy lần), còn bà Thiên lý nhãn, tên nó là Quý,hẳn  mẹ nó muốn nó  có cuộc sống đầy đủ như bây giờ, lại buồn bã vì nó có mẹ ghẻ, cũng có lúc bị đòn roi, dù không thể luôn vung mạnh roi, với vẻ mặt nanh ác, quất lên đầu một đứa bé gầy  gò, rách rưới, nép mình dưới chân chịu đòn, van xin và sợ hãi như mụ Tào Thị. Khi qua sân nhà bà cụ Đồ,chúng tôi thường chậm chân, nhìn vào  vuông sân, có khi bắt gặp bà đang nhặt những chùm hoa lan rụng, có khi thấy bà lui cui nhặt rau, bổ củi, hay  cặm cụi phơi những túm lá vối ra mẹt để làm trà . Những ngày ấy, bà là ngừơi  duy nhất của hai thôn có tuổi cao và còn mặc váy .Bên thôn tôi, các bà thường mặc quần “chân què”, loại quần có đáy rất rộng,như quần các chàng nài ngựa hay thích môn thể thao vượt chướng ngại vật bây giờ. Chị cả của tôi khéo may đan, nhưng mỗi khi muốn sắm một chiếc quần kiểu này cho mẹ, chị phải loay hoay vẽ cắt rất lâu . Khi tôi thắc mắc tại sao các bà, các mẹ yêu chuộng  kiểu trang phục này, Cô Mười mẹ Hoa Tre, một thợ may chuyên nghiệp  giải thích rằng phụ nữ xưa rất ý tứ và kín đáo. Chiếc váy bà cụ Đồ  mặc cũng  rộng thùng thình, dài trên mắt cá,vải dày và cũ, cứ sột soạt, phù hợp với dáng lưng còng và bàn chân giao chỉ hiếm hoi chỉ có ở bà.  Ông Sắc là người cùng họ Nguyễn Hữu với bà, kể rằng giòng họ ông  nhiều chi có cùng một bàn chân giao chỉ ( hai ngón cái chìa ra khỏi  bàn chân, như muốn  giao thoa với nhau ), rất giỏi mọi chuyện, khỏe mạnh, sống thọ .Tôi nhớ bà cụ Đồ có đôi mắt to rất sáng, hai dái tai trĩu xuống vì đôi khuyên vàng nặng. Lũ chúng tôi kéo nhau đi hàng một, vì lòng đường chỉ đủ rộng như thế, qua làng, như bộ đội đi hành quân,đứa nào cũng nhanh nhẩu, con chào bà, râm ran một quãng đường vắng, thì bà lão tám mươi cũng từ tốn, giỏi, đi học đấy à. Có khi bà dừng  chổi, chìa ra cái rá tre, trong đó có những chùm hoa ngọc lan trắng muốt, thuôn gọn như ngón tay út , thơm nồng.  Chúng tôi vội cất vào cặp, sau đó về nhà mới ngắt ra từng cánh, ép vào giữa những trang giấy, thơm rất  lâu, cả đến khi những cánh hoa trắng như sữa chuyển  sang màu nâu như cọng cỏ khô,mà hương thơm ngọt ngào cứ phảng  phất . Lúc giành nhau nhận hoa, có đứa tò mò  ý tứ nhìn xuống hai bàn chân trong đôi dép nhật mòn cũ của bà, bắt gặp những ngón chân cái dị dạng,  những ngón còn lại  cũng tỏe ra . Các bà trong thôn tôi thường đi guốc lúc rửa chân sau chiều muộn, còn khi ra vườn làm lụng thì đi chân đất, đi ủng. Mẹ tôi còn có dép nhựa, hay dép nhật như bà cụ Đồ,  vợ một ông thầy đồ chốn quê nhà . Bà mất khi tôi học đến cuối cấp ba, hẳn bà thọ nhất làng .
 ( còn nữa )


No comments:

Post a Comment