NGÔI NHÀ MÀU TRẮNG ( P4)
Lần há
miệng đó là tôi muốn chia sẻ một cảm nhận khá mới mẻ của tôi , về những
phụ nữ người dân tộc thiểu số ở Lâm
Đồng,để “liên hệ” cụ thể hơn trong mạch đề tài tìm thân nhân của gia đình Hoa
Tre .
Tre rất mê hoa cỏ, chim muông, cây lá, còn tôi
thì mê tiểu thuyết, thơ ca, đàn
hát. Nhớ hồi còn bé con, tôi
luôn thấp thỏm chờ được các chị làm công trong nhà dẫn đi coi tuồng hát bội mỗi
đêm, khi những đoàn hát rong này đến
diễn ở “nhà thông tin”, một gian nhà rộng
như hội trường, chung cho cả hai ấp, bây giờ là vị trí đối diện với
trường Phù Đổng, bên kia đường Lý Nam Đế. Diễn viên đa số còn rất trẻ, nam nữ
khi ra sân khấu tô son đánh phấn rực rỡ,
xiêm y của tiểu thư công
tử thật lộng lẫy, nhưng ban ngày
họ lần xuống thôn tôi mua rau củ, mắm muối , có khi còn xin que lẻ củi cây để nhúm bếp, trông họ gầy gò,
xanh xao và tàn tạ .Họ có lẽ đến từ một miền quê, có cùng một giọng nói, ai cũng xưng hô thân mật, anh em ngọt lịm,chứ ở nhà tôi, chỉ có ba tiếng ngôi thứ nhất là “con” với cha mẹ, người đứng tuổi , với thầy cô ở
trường và “tui” với tất cả những người còn
lại, mi tau với bạn cùng lứa, bất kể nam nữ, chứ “em” là đại từ ngôi hai lẫn một hiếm khi dùng, có lẽ vì nó đi theo một
ấn tượng đầy cảm xúc nào đó .
Có một lần và từ đó tôi không được dẫn đi coi tuồng nữa. Hôm ấy tôi rủ Tre qua chơi
nhà một người bạn gần chùa Linh Giác, nằm trên ngọn đồi sau trường. Khi về thì
mắc mưa, chúng tôi tạt vào mé hiên nhà thông tin để trú chân . Khu
hội trường ban đêm chứa hằng trăm khán giả, ngồi lên những tấm ván kê trên các bi củi lớn làm ghế, ban ngày các diễn
viên sắp xếp lại thành chỗ ăn ở .Hai
chúng tôi khênh một bó mía ba bốn cây khá
dài mà cô bạn rủ ra vườn cho bẻ, nhưng vội chạy mưa , không
kịp đốn ra nhiều đoạn, bây giờ nấp mưa nên một cây bỗng vướng vào kẹt cửa .Tre nghiêng cánh cửa khép hờ để chỉ dẫn cho tôi
hướng kéo ngọn mía ra, bỗng nhiên nó đột
ngột bỏ tay xuống, quay đi, miệng bảo
tôi, thôi bỏ đi chị. Tôi ngạc nhiên hỏi,
ủa sao vậy, tao sắp lôi ra được rồi nè . Rồi tôi cũng thò đầu vào, nhìn há hốc.
Trên sàn ván, những đôi đào kép đang say
ngủ, có một người đàn ông nằm nghiêng, bàn tay đút vào
trong ngực áo cô gái nằm ngửa bên cạnh.
Hồi đó Tre học lớp hai trường làng, tôi đã là nữ sinh đệ ngũ (lớp tám ) rồi, mà
cách hiểu về cuộc sống của tôi rất ngô nghê . Lát
sau cả hai cũng lôi được ngọn mía ra, đứng chờ
mưa tạnh thì vác về, đọc đường cứ lo “bị lây bịnh”, vì theo Tre, cái
kiểu như thế là đang …khám bệnh. Tối đến, vừa cơm nước xong, cha tôi đã sang
bên nhà anh Thạch, các chị chuẩn bị đèn
đuốc,áo ấm và tiền mua vé, tôi ngần ngừ
từ chối khiến họ rất ngạc nhiên. Vừa lúc
đó cô Mười lại hối hả xách đèn bão xuống, thì thào với đám phụ nữ khá lâu. Tôi thoáng thấy mặt mẹ tôi tái đi, còn các chú
thì lại cười cười khó hiểu Bây giờ,
tôi thấy cảm thương những con người sống tha phương cầu thực ấy,
cùng một lứa bên trời lận đận . Dù sao
cũng là tình người cùng quê, cùng cảnh .
Các “lão tăng” của
chúng tôi là những tín đồ Tin Lành, sốt sắng việc đạo, việc đời, nhiệt tình “đi
nhóm” ( là cách gọi đi dự các buổi lễ
được tổ chức tại nhà thờ ). Nhưng có những buổi họ không được đến, vì hội thánh
chỉ dành riêng cho phụ nữ chúng tôi mà thôi.
Phụ nữ toàn tỉnh, từ thanh niên đến lão bà, hối hả trên những chuyến xe
buýt dài ngoằng từ các huyện kéo về, có khi đến con số cả ba ngàn. Người các
dân tộc chiếm đa số. Họ có chung một kiểu trang phục duy nhất là váy xà rông đen và áo sơ mi trắng .Họ có chung một trang sức
là những chuỗi cườm kết thành những hoa văn đủ hình dạng, màu sắc chủ yếu là
trắng đỏ, pha đen, vàng. Chung một kiểu tóc rẽ ngang trán, buộc gọn đuôi tóc dài lửng sau lưng.Chung một
dáng người cân đối, khỏe mạnh. Chung một tia nhìn chân thật, chung một nụ cười
hiền lành, đặc biệt chung một giọng hát
rất cao, thanh và thành kính .Với họ,
hát là cầu nguyện. Tôi đã nghe thánh ca nhiều lần, nhưng đến đây thực sự là
“xem thánh ca” .Họ hát bằng ngôn ngữ của dân tộc họ, khuôn mặt lộ rõ sự cầu xin,tin tưởng, biết ơn
khiến người đến dự đều hiểu và thấy xúc động.Họ sống giữa
xã hội của người Kinh nhưng vẫn có những bức tường thành cho riêng mình, đó là
cội nguồn giòng tộc. Các cô Mười và Út dẫu đã mấy chục năm làm người miền đông,
qua cao nguyên trung bộ, rồi về miền tây
Nam Bộ, nhưng giờ biết gốc gác là vùng quê nắng gió Hà Tĩnh, mà không thể tìm
về, thì buồn lắm chứ .
Mẹ tôi theo cha tôi và cả anh em chú bác bên chồng
vào Dalat, thế là đành xa quê vì mưu sinh, rồi vì thời cuộc. Sau ngày đất nước thống nhất, các anh cứ loay hoay lục
tìm một địa chỉ nào đó để gửi thư nhưng cảm thấy thật mong manh. Cha tôi biết
cụ thể về nơi công tác của người con trai của ông Cửu Miên, nhà văn Nguyễn Thái
Huyền, công tác ở Ty Bưu điện Quảng Bình. Nhưng giữa bên nội và bên ngoại là
một khoảng cách lớn. Bỗng nhiên có thư từ một người con lớn của cậu tôi.
Anh hơn các anh tôi một vài tuổi, khi mẹ
tôi chưa xuất giá đã từng bồng bế anh, nay đang công tác ở Đoàn khảo sát thiết
kế, cơ quan đóng ở Chúc Sơn, Chương Mỹ, Hà Sơn Bình, còn nơi anh sống là 135
Nam Đồng, Hà Nội . Vợ anh ở trong quê Đô
Lương, cũng là một cô giáo cấp ba , cùng hai con nhỏ . Không còn gì vui hơn. Thư anh gửi qua địa chỉ từ khi nhận được
bưu thiếp cha tôi gửi trước năm 1954, nhà vẫn ấp Nghệ Tĩnh, còn giòng họ Nguyễn
Thái thì đông đảo …Mẹ tôi nôn nao chờ
ngày về thăm quê, cũng mong cậu hay dì
vào thăm, nhưng chỉ gặp bà con bên nội .Người con trai cậu giải thích là các o ( các chị của mẹ tôi ) đều đã già lắm rồi, vì mẹ là con út trong nhà, còn cậu
thì qua thư, cậu tâm tình, muốn vô thăm các cháu, chỉ vì họ chứ không vì
hàng.Có lẽ cậu tôi cũng bị tổn thương
bởi một ai đó . Mãi ngày giáp tết, người con cậu quyết định đón mẹ tôi
về quê cũ. Hôm ấy, tôi vừa được trường Đống Đa cho nghỉ tết, nửa muốn xin đi
cùng, nửa lo lắng vì chuyến đi sẽ kéo dài
qua rằm tháng giêng. Vợ chồng cậu Bé vừa sinh con gái đầu lòng, các anh
tôi cũng bộn bề công việc nhà trường, chỉ ước giá chi là hè. Thế nên mẹ tôi về quê một mình . Chuyến xe
chỉ có ba người, anh tài xế trẻ và hai cô cháu. Các anh tôi bảo với ông anh họ, mẹ đi xe “chì” lắm, anh không phải
lo, dù chiếc xe đón mẹ tôi thuộc dạng xe
jeep, gió bốn bề lồng lộng, xe lên đường
trực chỉ về phương bắc, nơi có một mùa
xuân rét mướt đang về với bao kỷ niệm êm đẹp , ấm áp tình thân của mẹ tôi . Đó
là chuyến hồi hương duy nhất trong đời mẹ tôi. Nửa đời tóc ngả màu sương, nhớ quê anh lại lên đường thăm quê . Tố Hữu tìm về mảnh
đất chôn nhau cắt rốn của mình khi đầu đã hai màu tóc, mẹ tôi lúc ấy cũng
gần ngoài sáu mươi .Và đúng là ngay ngày đình họ Nguyễn Thái cúng rằm đầu năm,
mẹ tôi mới có mặt ở nhà . Cụ tìm thăm hai họ nội ngoại, gặp những con
người thân yêu sau hơn nửa thế kỷ . Chuyến vào Nam ở tuổi đôi mươi, đi bằng xe
lửa, mẹ tôi kể lại trong những ngày mưa
bão, con cái xúm xít ở gian buồng của cánh phụ nữ để vá sửa quần áo, chần ( may thêm một lớp vải mùng vào bên ngoài lớp
chăn bông ) chăn, phải chầu chực ở ga Vinh nhiều đêm, lần đầu tiên mẹ tôi thấy
bóng dáng “ông tây bà đầm”; chuyến về có
con cháu đón đưa tận nhà, lại được ghé
thăm những nơi mọi người mơ ước, lăng Bác Hồ, cầu Bến Hải,thành nội Huế , khi
đất nước hoàn toàn độc lập. Tết năm ấy, mẹ tôi còn tranh thủ tạt qua Sài gon,
ghé thăm và cám ơn vợ chồng ông chủ vựa rau ở Cầu Muối, gia đình chị Châu đã
cưu mang tôi những ngày tôi về đây làm
học trò , điều này không ai nghĩ đến, thật là thấm thía. Mẹ tôi thì bảo, có dịp nào đi nữa đâu. Chị Nhụy bảo, mẹ
gan thật. Bà chị “ kiêng dấu ngã” của tôi chưa bao giờ dám về thành phố đô hội
này một mình, dù đám con chị nay đang có ba người , tuổi đều ngót nghét ba
mươi, ở trong đó . Mẹ tôi khi từ Nghệ
quay vào Nam, đến Đông Hà
thì người cháu phải sang Lào, mua vé cho
bà o về Dalat, lo lắng là chỉ có vé đến Sài gòn thôi,
và nghĩ một bà lão cả cuộc đời chỉ quẩn quanh dưới mấy rặng thông, để bà
lẻ loi giữa Sài gon trăm ngả, làm sao bà có thể mua được vé để đi về cao nguyên? Mẹ kể, nhờ xe xích lô đưa đến
chợ Cầu Muối, hỏi thăm vợ chồng Ông Lầu. Sau đó, lại nhờ ông đèo qua 71 Can mét
( đường bác sĩ Calmette), nhờ họ chỉ nhà
chị Châu. Đường nơi miệng chứ ở đâu. Ra đường thì hỏi kẻ tra ( già ) . Nói người Sài gòn “xé áo lấy chỉ”, nhưng mình
tử tế ,họ cũng tử tế với mình . Đó là triết lý sống của mẹ tôi . Bây giờ tôi
mới thấy mẹ tôi thật “chì”. Các con của
mẹ thua xa nhé.
Dịp tết năm nay,
mọi người mới có cơ hội về thăm quê, cúng
viếng tổ tiên. Một đoàn đông lắm, riêng
hộ 41 của mẹ tôi đã có các ông
con trai, chị cả, rồi chị Hạ Em. Chị Thủy hàng xóm cũng đi nhân tiện thăm thông gia ( cậu con
trai chị cưới vợ ở Hưng Nguyên, Nghệ an ). Tôi cũng muốn đi, bà Nhụy giận dỗi, ừ đi hết đi, tui
ở nhà … chết một thân tui cũng được. Chị
ấy đổ bệnh từ trước tết . Hai bà chị tôi
đành bảo tôi, thôi dì đi dịp
khác. Bà Nhụy vui lên, rủ rê, bữa nào tao rảnh hai đứa
mình đi Phan Thiết với bà Canh, bà
Kem. Nhưng đến bây giờ vẫn chưa đi được.
Chị tôi chưa rảnh .
Một bữa tôi đang lui cui dán hộp chợt có tiếng
chuông báo điện thoại có tin nhắn. Chắc tin báo nạp tiền khuyến mãi, hay các thứ linh tinh
như thế, nên tôi không buồn lục túi mở xem. Tiếng chuông gọi. Của
Tre. À, nó muốn mình đọc tin nhắn đây.
Sau tết chị em mình đi Daklak một chuyến nhé, em bao . Chà, Tre quyết tâm tìm họ hàng cho hai bà
mẹ đây. Lại một hồi nhắn tin liên tiếp, ba tin , với số máy rất quen. Toàn bằng
tiếng Pháp, đại loại, Toa
có cái nhà trắng đẹp quá . Nhà
chi của tui, của người ta chứ bộ. Moa sẽ trọ bên ông Canh một tuần, và ông Kem một
tuần. Kệ ông. Mắc mớ chi mà toa moa
với tui. Nước mắt tôi bỗng dưng ứa ra, tức tối, tủi thân.Xây thành
đắp lũy cho cố xác vô . Có lẽ dùng tiếng
Pháp để bà Đu Đủ không thể đọc ra. Trước
đây, họ đã cự nự nhau một phen quyết
liệt lắm rồi mà . Tôi cứ điềm nhiên vớ
lấy keo hồ, tính dán tiếp nhưng ông Nam
không ngờ đã theo dõi mọi biến
đổi trên khuôn mặt tôi, đứng dậy đi tìm hai cái nón bảo hiểm, khoác áo ấm và
chuẩn bị đẩy chiếc Dream cũ kỹ ra sân.
Để tôi đưa cô về, xe đạp mai biểu ổng sang mà rinh . Tôi không thể ngồi thêm,
vì ông Nam vốn thẳng tính, nói là làm . Tôi đành đứng dậy, thôi để tôi đạp xe
về được mà.
Tôi đẩy xe lên hết
con dốc Mai Hắc Đế, đến cổng nhà thờ Mai
Anh thì va phải một người khoác áo phao
màu xám tro đang đứng co ro ở đó, miệng
cười hề hề . Tôi cứ đạp xe đi thẳng .
Nguyên Xuân.