Chờ cho tấm bảng thông báo trở về với bối cảnh ban đầu, bốn bà cô kéo nhau rời sân. Ai cũng nhủ lòng,thôi quên biến cố vừa xảy ra đi, bởi dù sao các cô giáo cũng biết khó mà tìm ra thủ phạm. Nếu xếp vào bảng thi đua của cờ đỏ thì khuyết điểm này thuộc diện “phát biểu linh tinh” ,còn nặng hơn thì… rõ ràng là …nghịch với lửa. Tấm bảng ấy nằm trong văn phòng Ban giám hiệu. Người ra thông báo là một thành viên của Ban này luôn,hẳn nhiên là Hiệu trưởng .Mà cái lỗi đụng đến thầy Hiệu trưởng thì… Họ tạt vào khu chợ nhỏ gần trường để mua chút thức ăn cho bữa trưa, có thể vài hôm nữa vì biết đâu ông trời buồn tình sẽ nổi dông bão tiếp. Mùa mưa nên chợ vùng cao nguyên này tràn ngập sắc vàng mơ trong các thúng mủng, món măng luộc,tức là măng tươi được lấy trong rừng tre vùng Đạ Houi, Đạ Tẻ,nơi còn nhiều khu rừng nguyên sinh giáp Đồng Nai, rồi luộc chín và tước nhỏ, người mua chỉ việc mang về ,chần lại nước nóng,là có ngay vài món ngon. Tươm thì xào thịt ba chỉ,còn ở nhà cô bạn,tôi thấy chủ nhà thường mua cả ký măng, sẵn chợ luôn có cá nục hấp từ biển Phan Rang,Phan Thiết mang lên, rất tươi và rẻ,đem kho chung hai món lại,ăn rả rích với cơm nóng ngày mưa,ôi thôi không còn gì bằng ! Nhưng chị phu nhân thì rảo quanh khu chợ nhỏ tìm mua bằng được cây rau bố xôi, sách vở gọi là rau chân vịt.Chúng tôi, chị thanh tra vốn là cô giáo Sinh vật,bảo ngay : Tiết mưa này hiếm lắm.Vì chưa kịp ra lá là mưa đánh dập cho te tua rồi . Ngày ấy chưa có ai chế ra thứ nhà lồng như bây giờ ! Nhưng chị này cương quyết và thiết tha,là bởi có một vị khách phương xa sẽ ghé nhà dùng bữa trưa nay,mà hễ khách đến thường khát khao một món ăn thật đơn giản,canh rau bố xôi nấu thịt bò ! Tôi chợt nhớ có hôm tôi gặp chị này phóng xe qua tận vùng Thái Phiên,tìm mua cây con Ăc- ti -sô,tức là cây mẹ vừa trồng, khi chuẩn bị đâm bông thì có vô số cây non mọc theo, thân hồng hào,mơn mởn.Những đám cây này nếu để già sẽ tách ra làm giống,nhưng người ta chỉ giữ lại mỗi gốc chính vài cây,còn lại thì họ tỉa ra khi cây cao độ vài gang,gọi là”cây non” rồi bó lại từng bó độ chục cây,bán làm rau,giá khá cao,chỉ những bà đầu bếp bấm bụng mới dám mua về,nấu canh hoặc trộn gỏi. Loại cây này chỉ rất sẵn những ngày mưa gió như hôm nay .Vậy mà chị ấy lại bươn bả tìm mua vào tiết trời nóng nực ,hanh khô.Vì chả là có khách đến,lại thổ lộ muốn được thưởng thức món ấy. Phu quân của chị từng đi nhiều nước, hẳn nhiên các vùng trên lãnh thổ Việt Nam thầy đều đến,nên bạn bè,khách khứa phương xa rất đông. Đà lạt có những món ăn nổi tiếng nhờ rau củ, nên tìm đãi khách hai món ấy thì rất đúng gu,nhưng mà …Chị phu nhân phóng xe đi, một cô hàng rau nhìn theo, buột mồm:
- Giàu có sướng thật, hễ khách đến thích ăn gì là có ngay.
Rồi nhìn chúng tôi. Các cô giáo ở đây hay ghé chợ,nên bạn hàng trong chợ quen mặt.
- Hẳn cô ấy là người ..giàu nhất trường này,phải không các cô ? Con chỉ có một ,mà chồng thì lương cao..
Chị thanh tra cười nhẹ, dấu hiệu không đồng tình cũng không phản đối. Có một bà ngồi gần đó,vừa dùng dao tước nhỏ cọng măng trong rổ,vừa chép miệng,giọng hoài niệm :
- Nếu nói giàu ở xứ này,thì không ai bằng ông Võ Quang Tiềm , ông Võ Đình Dung cả .
Hai nhân vật này ,hình như tôi đã nghe nhắc đến đâu đó. À phải rồi,chiều hôm qua ở nhà bà bạn này .Nhà có một cô cháu đang học vần,và người làm gia sư cho nó chính là bà ngoại! Tôi thật ngạc nhiên .Bạn tôi vẫn tâm sự, bố mẹ bà này là những nông dân Hai Lúa đích thực. Ông bố còn biết ghép chữ,làm các phép tính,chứ bà mẹ thì .. Đứa cháu gái đã sáu tuổi, là tân sinh viên năm nhất đại học chữ to,ngồi buồn rầu trên chiếc ghế nhỏ đặt góc bếp,hai môi mím chặt, chân tay rũ ra , trong khi bà ngoại thì cố hết sức chỉ vẽ. Lối đánh vần của bà lão ngoài sáu mươi theo kiểu cũ, bê, xê, tê.. Tôi sững sờ vì thấy cụ đọc vanh vách phần minh hoạ. Rồi cụ khen:
- Kể thầy cô viết sách cũng tài,thì “tổ y tế có cô y tá “ là đúng rồi !
Tôi cảm thấy tò mò và quyết tâm tìm hiểu :
- Bác học hồi nào,ai chỉ cho bác mà bác đọc..ngon lành vậy?
Bà cụ hồn nhiên:
- Học hồi cụ Hồ lên nắm chính quyền.
Tôi nhổm người khỏi chỗ ngồi. Từ năm 1945. Khi ấy, bà cụ này vừa có anh con trai cả, và bà chỉ mới ngoài đôi mươi.
- Thì bác Hồ lên,người ta kêu đi học. Ồ vui lắm,cứ chiều lo cơm nước cho mau ,rồi đèn đuốc nách con theo, kéo cả lên đình làng nhà mình đây. Bút vở, cả đèn dầu,có ông Võ Quang Tiềm ,Võ Đình Dung cho cả .Học giỏi có phần thưởng, chén muỗng đũa, gạo ,mắm muối, cũng của các ông ấy cho.
Rồi bà nhìn lên vách bếp ván,nơi bám khói vì dư âm những nồi cám lợn một thời.
- Hồi trước còn nhà cũ,chỗ này bác thưng bằng tranh tre. Muỗng được thưởng, rồi có mấy người làm nhà hàng cho Tây đem về cho trước đó, bác giắt cả lên đây.
-Rồi đâu hết mẹ ? Cô con gái chen vào .
- Ơ thì Tây nó quay lại, cả ấp đi tản cư, xuống tận Phan Rí, quay về thì ở nhờ dưới Đất Làng,Cầu Đất. Muỗng giắt nơi vách tranh,người đi từ đằng xa thấy lấp lánh, moi rút hết.
Tôi đùa :
- Hồi đó mà Bác được đi học nữa chắc là..muỗng giắt thành vách luôn !
Bà cụ bỗng như tâm tình :
- Ngoài quê nhà gần trường,kế đồn lính,mà có cho con gái đi học đâu.
-Phải bế em mà mẹ ?Hay là ra đồng ?
Cô con gái lên tiếng. Tôi nhìn bạn nầy, như cùng hiểu là chúng tôi đang nghĩ về các cô Mười,Tư, mẹ của Hoa Tre. Tuổi năm sáu,nhà nghèo,họ bị bán đi làm chị bế em cho các nhà khá giả trong làng.
-Thì cũng có lúc, chớ mà tuổi ấy đã làm được cái chi , chỉ ở nhà nhảy thôi..
Tức là chưa thể phụ giúp cho cha mẹ được nhiều, bởi đây là tuổi vui chơi,nghịch ngợm.
Bỗng cả ba giật mình khi cô cháu bé đã lẳng lặng bỏ ra hiên ngôi. Mẹ bé,người chị thứ của bạn tôi, đang ở cữ đứa thứ tư, bé này là trưởng nữ,trên có một anh hai Đôi bận chị gửi xuống đây để tiện đường đi học bên ngôi trường làng.Chị có lần thú nhận với riêng tôi:
- Hồi đó giá mà chị chịu khó thêm một tí, chỉ làm cô giáo cấp một,cũng đỡ vất vả ..Mà tội lười . Chứ hồi chị cả đi học mới cực kìa .
Dạo cùng “chia lửa “ với nhau ở dưới Đồng Nai, có lúc người bạn kể lể rằng mình là kẻ thật diễm phúc vì được cha mẹ luôn tạo mọi cơ hội để được ăn học tử tế. Cô này bảo thương nhất chị cả, thời chị đi học trường rất xa, nhà một bầy em , có những kiến thức đơn giản về nhà không biết hỏi ai,dù lúc ấy mới lớp ba lớp nhì (lớp ba, bốn bây giờ )nên sau một bữa bị sốt ho,rồi thế là …Sau này có bữa một người em họ bên bố từ Saigon về thăm,ông trách bố mẹ chị, rằng nhà bốn đứa con đâu phải là đông, của ăn cũng không đến nỗi túng ,mà đành để cho con nghỉ học. Bởi theo ông chú là kỹ sư công chánh này, dù có làm ngành nghề gì, mà có chút vốn liếng chữ nghĩa thì mọi sự đều thông suốt . Nhưng bấy giờ cả thôn nhà nào cũng thế cả . Có lẽ vì vậy mà sau này,đứa con nào thiết tha việc học,thì được ưu tiên nhiều thứ . Tôi lại nhớ đến hình ảnh các vị “mạnh thường quân” của những ngày đất nước được độc lập từng được nhiều người ca tụng,hai ông họ Võ ngoài phố Dalat .Họ hẳn phải là những trí thức giàu có, hiểu rõ tầm quan trọng của giáo dục đối với đời sống con người nên không ngần ngại trích một phần tài sản để ủng hộ nhà nước mới,mà lại đầu tư tích cực cho giáo dục. Hơn hai chục ngàn cư dân thành phố này ngày ấy,một con số không nhỏ . Bà mẹ của cô bạn tôi buổi tôi thường ghé nhà đã ở tuổi gần bảy mươi, ông hơn vài tuổi,nhưng nom yếu mệt hơn bà,ông lý giải là do nghiện thuốc lào “ hắn rút người đi “ ông cười,còn bà thì dường như tay chân không lúc nào ngơi. Có anh con trai út cưới vợ ở chung nhà,hai vợ chồng vừa sinh con gái đầu lòng,thì nghỉ việc cơ quan ở Ty Nông lâm thuỷ để về làm vườn,rồi chăn heo gà. Chị con gái thứ lập gia đình gần đó, một bầy con.. Bà cụ loay hoay đàn cháu,rồi cơm nước cho đứa nọ,coi ngó nhà cửa cho đứa kia ..Thế mà bà cụ rất thích kể “chuyện đời xưa “. Cô bạn bảo, đó là dấu hiệu của tuổi già . Tôi vốn rỗi hơn so với những người quanh cụ, là bởi công việc đầy tính thời vụ của mình .Tôi thường tạt qua đây,phụ giúp bà mẹ việc lặt vặt và nghe bà tỉ tê. Có những nhân vật huyền thoại, thí dụ như chuyện một ông tướng ở đền Cờn,ngoài quê bà . Vị tướng cầm quân tài ba này có một trận đánh ác liệt cuối đời,đầu bị giặc chém lìa .Nhưng ông vẫn ngồi ung dung trên lưng ngựa, tay bê đầu. Đến khu đồi Cỏ may ở quê nhà, thì một bà Bụt hiện lên.Ông hỏi bà rằng : người bị giặc chém đứt đầu thì liệu có sống được không ? Bà Bụt đáp rằng không . Thế là con ngựa hất ông ngã xuống.Lập tức mối từ dưới đất đùn lên,vùi kín cả vị tướng và tuấn mã. Nơi ấy được nhân dân lập nên ngôi đền Cờn. Đền rất linh thiêng,ai đau ốm đến xin thuốc đều khỏi . Bà kể với niềm tự hào và ngưỡng mộ. Tôi có dịp ngồi biên thư dài dòng với bố tôi, ông cụ bảo, người nước ta khí khái, bất khuât như thế đó, cả khi thất thế cũng giữ trọn cũng không lùi bước . Khi hai người bạn thân, cô giáo bây giờ và Hoa Tre, từng tốt nghiệp cử nhân sư phạm Văn,tôi có đem nhân vật huyền thoại này ra kể,bởi có lần về quê,xe chạy qua một vùng nào đó,hình như là huyện Yên Thành,Nghệ An, tôi thoáng thấy một tấm bảng chỉ đường rất nhỏ “ lối vào đền Cờn “,thì hai người kia trầm ngâm, sau đó một thời gian dài họ ngập ngừng, có thể là một vị tướng của vua An Dương Vương chăng ?. Riêng với hai nhân vật họ Võ của miền đất cao nguyên những ngày mùa thu 1945 ấy,tôi vẫn luôn bị ám ảnh . Hẳn nhiên họ là những con người bằng xương,bằng thịt. Thật tiếc là trong thời gian ấy,tôi không biết tìm hiểu ở đâu.
Thế rồi … Khi Hoa Tre nghỉ hưu,vào cuối năm 2018, cô nàng đưa hai má và cùng má con cô Kê lên Dalat “đổi gió “ vào một ngày hè. Việc đi du lịch,nghỉ mát ở xứ ngàn hoa này đối với cô Kê không có gì là biến cố đặc biệt,nhưng bà giáo già này bỗng tỏ ra thích thú vô cùng khiến bọn tôi đóng vai chủ nhà,thấy ngỡ ngàng. Thì ra bà giáo già này, một giảng viên đại học,bảo trước đây đi lên Dalat chơi cứ như “cưỡi ngựa xem hoa” vì trọ ở khách sạn, rồi theo xe đi lướt qua mấy thắng cảnh có tên trong bản đồ, hồ nước ,ghềnh thác,cung điện,chùa chiền,rồi vội vã ra về. Nhưng bây giờ có nhiều thời gian, được thong thả bước chân, được trở về với quá khứ,được ngẫm nghĩ sự đời . Lý do ban đầu cô bảo,là bởi ông xã của cô, một cư sĩ đang ở ngoài Huế,quê nội của ông, từng có quãng thời gian học hành khá dài ở đây,mười hai năm,trong một khu trường dòng nội trú,trường Adran,của các sư huynh dòng Lasan. Hồi đó,cô kể những gia đình khá giả đều tìm cách gửi con học nội trú, xa nhà,chứ ở ngay Huế cũng có nhiều trường Pháp uy tín, mục đích là muốn tập cho con tính tự lập ngay từ lúc còn bé. Ngôi trường này nằm cuối con đường mà mỗi xuân thu nhị kỳ, con cháu họ Nguyễn Thái của bà bạn tôi đều kéo nhau về ngôi đền họ để bái cúng tiên tổ,đường Bá Đa Lộc ( Adran cũng là tên của vị giám mục này )nay là đường Lương Thế Vinh . Cô nhìn bà bạn nhỏ của tôi ,bà Bé,rồi bảo :
-Hồi cư dân từ Nghệ An vào trước 1940 đều tập trung sống ở vùng này, vỡ đất làm rau,ông xã tôi kể vậy. Sau đó, chính quyền Pháp trưng dụng làm trường Adran,nên họ được chia lô ở ấp Nghệ Tĩnh ngày nay. Rồi ông Xu Hiến,một người con trong họ, đưa anh em bà con vào, dựng ấp thành làng thành mạc rộn ràng như bây giờ .
Tôi vốn học dốt mà nhớ dai,bèn hỏi nay cái nỗi ấm ức cứ nén trong lòng :
- Vậy chú nhà mình hẳn có nghe nhắc đến hai ông Võ Đình Dung, Võ Quang Tiềm .
- Biết chớ,vì họ đều là đồng hương với ông xã nhà cô !
Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau,bấy giờ tôi mới biết hai bà Bé, Tre cũng từng nghe các bà mẹ nhắc đến tên tuổi hai vị”có máu mặt “của thành phố này từ lâu.
-Ông Võ Đình Dung có cô con gái cũng du học ở Pháp, là tiến sĩ vật lý, sau 1954 cô về Việt Nam,gửi con cho bố mẹ rồi đi tập kết, làm việc ngoài Bắc cho chính phủ Bác Hồ.
Rồi không để chúng tôi thắc mắc,ngỡ ngàng,cô kết luận :
Có thể xem như gia đình ông bà Võ Đình Dung có công rất lớn đối với người Đà Lạt.
Chúng tôi rụt rè:
- Vậy ông ấy là ..
- Một nhà thầu khoán,nay gọi là thầu xây dựng .'
Ghé thắp hương ở chùa Linh Sơn, chùa Linh Quang, cô Kê lại thì thầm :
- Ông xã cô bảo hai ngôi chùa này cũng có công đóng góp về đất đai,công sức, tiền bạc của ông bà Võ Đình Dung.
Ghé thắp hương ở chùa Linh Sơn, chùa Linh Quang, cô Kê lại thì thầm :
- Ông xã cô bảo hai ngôi chùa này cũng có công đóng góp về đất đai,công sức, tiền bạc của ông bà Võ Đình Dung.
Hoa Tre như chợt nhớ ra điều gì .
- Má Mười thường hay nhắc về ông Võ Quang Tiềm. Bữa đi chơi Dinh Độc Lập,má nói cái ông thiết kế khu dinh thự này là ..hình như con rể ông đó.
Cô Kê gật đầu :
- Ông Ngô Viết Thụ. Ông cưới con gái ông Võ Quang Tiềm. Ngoài Dinh Độc lập, ông này còn thiết kế nhiều công trình nổi tiếng ở xứ Dalat của các bạn, như Lò Nguyên Tử Lực bên Đa Thiện, Giáo hoàng học viện thánh Pio X, chỗ mé Đồi Cù, kế bên trường của chị Bé, hay cả chợ Dalat .
- Vậy ông Tiềm cũng là một kiến trúc sư à ? Bon cháu nghe kể nhiều khách sạn ở phố, như khách sạn Anh Đào này,hay nhiều khách sạn nổi tiếng ở Dalat,từng mang tên ông .
Tôi chen vào.
- Không, xuất thân ông là một thợ may , kiêm buôn bán nhỏ .
Chúng tôi đều ồ lên bất ngờ, cô Kê thong thả thuyết minh .
Người ta kể buổi ban đầu từ Huế vào, ông chú tâm may quần áo cho khách đến đặt hàng, rồi dần dà ông buôn bán,cứ mua đi bán lại mọi thứ hàng hoá. Dần dần,ông
Ông Tiềm trở thành một trong những đại lý lớn ở Đà Lạt bán sỉ lại cho các tiệm bán lẻ trong vùng cao nguyên từ Đà Lạt , qua Đơn Dương, xuống Đức Trọng, rồi vùng Đồng Nai thượng .Ngày ấy việc kinh doanh do người Pháo chủ động, chiếm ưu thế, vậy mà ông này là người Việt duy nhất ở Đà Lạt đủ sức cạnh tranh với hàng loạt hiệu buôn của người Tàu, người Ấn. Có lúc họ phải nhờ cậy ông chia lại cho họ các món có giá thành cao như rượu, thuốc lá...”.
Ông này quả là có tài kinh doanh. Mà trước hết là ông rất cần cù,lại giữ chữ tín .
-Ông Cụ Tiềm là một trong những người đóng góp nhiều nhất cho quỹ "Tuần lễ vàng" tại Đà Lạt năm 1945, với tư cách là một nhà kinh doanh địa ốc giàu có và sở hữu nhiều tài sản tại miền Nam Việt Nam và nước ngoài.
Cô Kê kết luận ,ánh mắt cô bỗng mơ màng,bâng khuâng. Cô tâm sự rằng chợt lúc đó cô nhớ đến thân sinh cô,một trí thức Việt từng hợp tác với người Pháp. Ông bà cũng dùng nhiều tài sản của gia đình để hưởng ứng tuần lễ Vàng năm 1945 không thể nào quên ấy.Nhưng khác với ông cụ Tiềm. Sự đóng góp của ông đến tự đáy lòng,bởi tất cả không phải do bổng lộc,mà do mồ hôi, sức lao động gian khổ của một người dân xa quê từ tuổi thanh niên với hai bàn tay trắng .
Tôi hồi tưởng :
Hồi con lần đầu gặp chú Thiện ở nhà thờ, con cứ nghĩ chú là người Nam Bộ.Nào ngờ ..
- Thì cũng là cái duyên.
Chúng tôi ghé qua chợ ăn trưa,cô Kê lại đưa chúng tôi đến một bất ngờ khác :
- Cô từng đi Huế,mà về xứ cao nguyên này,vẫn có cảm giác .. Thí dụ bánh bèo này,bún bò giò heo này,rồi chè đậu này,mà người bán cũng nói đặc sệt giọng người miền quê nội các con cô .
Cô Mười ngồi gần đó lên tiếng :
-Nhớ hồi bọn tôi bày ra làm mấy món mứt tết, mứt gừng,mứt dừa,mứt đậu trắng, cô Kê ngạc nhiên lắm,ủa ai bày mấy chị làm món Huế nhà tôi vậy ? Tôi cũng lấy làm lạ, thì cứ thấy mẹ chị Bé hồi trước làm,mình làm theo. Cô Kê hỏi,bà cụ ấy cũng người Huế à ? Không,nghe đâu .. xa hơn,cùng quê với bọn tui,ở vùng Thanh Nghệ Tĩnh . Ông chồng cô Kê lại biên thư vào giải thích,là bởi họ thấy các món ấy được người gốc Huế chế biến,ngon thơm mà dễ làm .
Cô Kê cười :
- Tôi nói các chị Dalat đây,cả Hoa Tre nữa,đừng giận nghe,là tui có cảm giác vùng chị Bé có chút là ..bản sao xứ chồng tôi. Là tại sao ?Thí dụ như từ “Mụ” để chỉ người phụ nữ tuổi cao, đức độ, gia đình đầm ấm. Người gốc Nghệ có từ “Con mệ” là cách gọi xách mé,tức là thiếu tôn trọng. Nhưng họ dùng từ mụ. Hay cách dựng nhà chữ đinh, bài trí ở khu nhà trên,có bàn thờ gian tiên,chỗ nghỉ ngơi của chủ nhân,rõ ràng mang công thức từ Huế .
Ba đứa tôi nhìn nhau.So với bà giáo già đáng kính này,thì luc chúng tôi chỉ là bọn hậu sinh khả uý,nên biết đường đâu mà phản biện nay nọ . Tôi chợt nhớ đến người chị cả của bà Bé, cô bạn tôi đây.Chị lập gia đình vùng Cầu Đất,nơi đây phố chợ tập trung nhiều người Hoa. Ngày tết họ có món bánh tổ, một loại bánh nấu từ nếp và đường,rồi để nguội, sau đó cắt ăn dần, càng cũ càng lạnh càng ngọt càng ngon, nhất là lúc tiết trời buốt giá,ngồi co ro bên ly trà đắng chát,nóng bỏng môi. Nơi đây cũng tập trung nhiều cư dân vùng Nam Ngãi Bình Phú với món bánh thuẫn ngày tết.Bánh nướng than gồm hỗn hợp bột mì, đường, trứng, khuôn là những khối tròn tròn như trẻ con được định sẵn từ một cái lò nhôm chắc chắn,nom như cái nồi cơm có nắp đậy, khi đúc bánh than nóng được gặp lên trên nắp lò. Do công việc của một dân buôn nông sản,goi cho to chứ thực ra tôi chỉ thu mua dâu,hoa lá Ắc ti sô, trà cà phê theo mùa,nhưng tôi phải đến tận nơi,theo dõi khâu trồng trọt, chế biến, để tạo niềm tin cho khách hàng. Nhưng bởi dọc ngang khắp mọi ấp phường,có người đùa bên giờ lãnh thổ tỉnh Lâm Đồng kéo dài xuống biển, hẳn tôi sẽ kinh doanh thêm món hàng hải sản,nên tôi gặp gỡ mọi cư dân khắp các vùng miền. Tôi hiểu được vài câu giao tiếp thông dụng của tiếng Cil,Lach, Sre của người đồng bào vùng Lạc Dương, Tà Nung,phân biệt rõ âm giọng của người vùng Bình Định,Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phan Rang, hay người gốc Nam Bộ của cô Kê. Có người thắc mắc thì tôi đùa,do tôi hay đi tàu lửa ra Bắc một dạo,hễ cứ nghe âm giọng vang lên thay đổi khi ga mới xuất hiện,thì tôi biết là mình đang ở miền quê nào ,tỉnh thành nào. Ở vùng cao nguyên này, trừ một vài nơi còn thuần giọng nói một vùng quê,thí dụ như qua bên ấp Hà Đông,hay các vùng xứ đạo định cư sau 1954,ở Tùng Lâm, Du Sinh, thì nghe giọng Bắc,hẳn nhiên đã bị pha trộn,hoặc vùng Thái Phiên, vùng ấp Ánh Sáng thì nghe giọng Huế, vùng Nghệ Tĩnh giọng quê hương của họ, nhưng có một âm hưởng chung của hơn hai trăm năm mươi ngàn cư dân,ở đây, là giọng nói cao nguyên, mai kia hợp với vùng biển Bình Thuận Phan Thiết thì giọng điệu vẫn thế,có pha trộn giữa giọng người miền Nam và miền Trung.
Tám mươi năm đã qua. Những học viên lớp bình dân học vụ ngày nào - mà bà cụ thân sinh bà bạn tôi đùa,rằng có người đùa là “bò dê heo vịt”vì đi học siêng, học giỏi thì được thưởng,có người được bê cả cặp gà, cặp vịt con về nuôi, gầy dựng lên mãi thì có được đôi heo giống,rồi thế là có cặp bò ..- nay đều đã ra người thiên cổ. Những biến cố lịch sử từ tám mươi năm trước,họ hiểu mơ hồ,theo cảm nhận của người dân, rằng Pháp từng đô hộ xứ này, sau đó thì Nhật lại tràn vào, rồi Pháp quay trở lại,rồi núi cách sông ngăn, mà về sau, một người con của họ, thủ tướng Phạm Minh Chính, đúc kết “ sau đại chiến thế giới lần thứ hai, thì Việt Nam là một trong những dân tộc chịu nhiều đau thương mất mát, trải qua nhiều cung bậc xấu nhất,tồi tệ nhất. Bởi họ phải đứng lên chống phát xít ngay sau ngày độc lập 2.9.1945, rồi tiếp ngay đó là tham gia chống đỡ chủ nghĩa thực dân cũ, rồi lại lao vào cuộc kháng chiến sau ngày đất nước chia đôi ..” Tám mươi năm ấy, dù kẻ miền Bắc,người miền Nam,có người ở mãi trời Âu, vẫn da diết một quyết tâm : không có gì quý hơn độc lập, tự do .
Trong bộ ba vườn đào,thì Tre và tôi bị các chị của bà Bé lên án ,hai con đó là thứ hàm hồ, nhưng họ lại khuyên cô em mà họ chê là”lù đù” nhưng mày phải cố học lấy thứ ..hàm hồ hàm chướng đó !
Bởi thứ hàm hồ của chúng tôi mang một chút “không khí” câu viết bằng phấn trắng trên tấm bảng sơn đen của ngôi trường bà Bé ngày nào, à nói đúng ra là bắt nguồn từ tính nghịch ngợm tinh quái của bọn học trò tuổi mới lớn,nhưng bọn tôi lấy làm tâm đắc, nhân lên thành một triết lý sống, rằng “Hễ ai mà dám xâm phạm đến nền độc lập,tự do của chúng tôi hôm nay thì…chúng tôi sẽ không để cho họ yên ! “.Nghe có vẻ khẩu khí quá,nhưng đậm phong cách ngôn ngữ chính luận đấy chứ !
Dù đã ở tuổi bảy mươi, nhưng so với các thế hệ đã từng đứng lên giữ gìn giang sơn gấm vóc này, thì bọn tôi chỉ là những đứa trẻ. Vẫn cảm thấy mình luôn có trọng trách với quê cha đất tổ .
GIANG- BÉ.