THỂ THƠ TÁM CHỮ
-
ĐÒ LÈN (Nguyễn Duy )
-
Thơ tám chữ là thể thơ
mỗi câu thơ có tám chữ. Theo nhà nghiên cứu thơ mới Hoài
Thanh , thể thơ này có nguồn gốc từ ca
trù . Ca
trù là dạng nghệ thuật biểu diễn dùng nhiều thể văn chương như thể phú, thể truyện, thể ngâm, nhưng thể văn chương phổ biến nhất là hát nói. Ca trù ( hay còn gọi là hát cô đầu, hát ả đào, hát nhà
tơ, hát nhà trò- thể thơ đậm màu sắc dân tộc) là một loại hình diễn xướng bằng
âm giai rất thịnh hành tại khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, rất thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca
trong cung đình và được giới quý tộc và trí thức yêu
thích. Ca trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc.
Một số nhà
nghiên cứu còn cho rằng thể thơ này
từng chịu ảnh hưởng thể sonnet ( thi khúc ) của phương Tây, số từ trong câu dao động từ bảy và tám.
Good friend, for
Jesus' sake forbeare (Tránh xa nấm mồ của ta)
Blessed
be the man that spares these stones( Người nào gìn giữ và không động đến mộ
ta sẽ được phước lành.)
, (Shakespear)
Oh! combien de
marins, combien de capitaines(bao nhiêu thủy thủ, bao nhiêu thuyền trưởng)
Combien ont disparu, dure et triste fortune! (Có bao nhiêu đã biến mất, khó khăn và
buồn may mắn!)
(Victor
Hugo và Đêm đại dương.. )
I'm going out to clean the pasture spring(Tôi
ra đi dọn đồng cỏ mùa xuân)
;I'll only stop to rake
the leaves away(Trên đồng cỏ tôi sẽ cào lá rụng)
(The Pasture- nhà thơ Mỹ Robert
Frost)
Thể thơ tám chữ được cách nhà thơ mới sáng tạo trước năm 1936 ( trước khi ông Thao Thao đề
xướng ) Vần liên chân được tận dụng, nhưng yêu vận (vần giữa câu ) hầu như biến mất
Ở đây, chúng ta chú ý
đặc điểm: thơ tám chữ được hình
thành từ ca trù , gồm bốn thể văn chương như thể phú, thể truyện, thể ngâm, hát nói mà tạo nên .
- Phú theo nghĩa đen chủ yếu là thể văn tả cảnh. và liên kết với nội tâm để
tả tình. Số chữ từng câu trong
bài phú có thể là bốn, năm hoặc bảy Phú
lưu thủy là dạng phú không hạn chế số
chữ, có khi lên mốc tám , gần như văn xuôi.
- Truyện gắn liền với động tác kể :
ai? Làm việc gì ? Ở đâu ? Lúc nào ? truyện
gồm có nhân vật, có tình tiết .
-Ngâm khúc gắn
liền với thể thơ song thất lục bát. Câu
song thất vần trắc xen câu lục bát vần bằng; có vần chân và vần lưng khiến cho
âm điệu xoắn xuýt, thích hợp với nỗi lòng ai oán, thương xót sầu muộn , nỗi buồn thăm
thẳm da diết . Ngâm khúc thường dùng nhiều
tiểu đối và từ Hán Việt cho câu thơ tha
thiết trang trọng.
- Hát nói. là một làn điệu của hát ả đào( Hát ả đào
gồm nhiều làn điệu có hình thức văn học và âm nhạc hoàn chỉnh nhất ). Xét về mặt văn học, hát nói được xem là một thể thơ cách
luật , nội dung ngợi ca .Số từ trong câu thường là tám .
- Thơ
tám chữ còn ảnh hưởng phép tắc tu từ,
thanh vận của thơ hiện đại phương Tây
Ta có thể hiểu
thơ tám chữ và là hướng để đọc thể thơ này :
-
Mượn câu bát
trong thơ song thất lục bát , trong phú và trong hát nói , nhưng chỉ chọn vần
chân .( Thể thơ song thất lục bát có vần
lưng) , mượn nhịp điệu ( cao thấp ) tiết
tấu ( nhanh chậm ) luôn thay đổi và
phóng túng của hát nói
-
Mượn nội dung kể
truyện (truyện) tả cảnh ,tả tình ( phú ), mượn nỗi lòng ai oán,
, nỗi buồn thăm thẳm da diết ( ngâm khúc ), hoặc nhiều cung bậc cảm xúc ngợi ca
của phú và hát nói.
Có rất nhiều bài thể thơ mới tám chữ : Xuân Diệu (Vội
vàng,Tương tư chiều, Lời kỹ nữ … ) Huy Cận (Đi giữa đường thơm, Nhạc sầu ..)Tế
Hanh ( Quê hương, Ao ước ) Chế Lan Viên (Đêm tàn, Trên đường về )Đoàn Văn Cừ (
Chợ tết )Anh Thơ (Chiều xuân) Hàn Mặc Tử(Trường tương tư, Đêm xuân cầu nguyện,
Ra đời… )
Thơ hiện đại : Tố Hữu ( Mùa thu
mới , Người con gái Việt Nam) Trương Nam Hương ( Cảm nhận chiều Dalat, Xa lắc
mùa thu )Lê Minh Quốc (Nhớ Đông Ky
Sôt)Phan thị Thanh Nhàn (Hà Nội mùa thu , Rồi có thể)
ĐÒ LÈN (Nguyễn Duy )
đọc như thế nào ?
1. Nhà
thơ kể lại cuộc đời người bà qua những hồi ức tuổi thơ được sống bên bà
- cháu hồn nhiên ,nghịch ngợm,
luôn động đậy chân tay ( bắt chim, trộm vải, trèo tượng Phật, đi câu,đi chùa )
- bà vất vả mưu sinh , tay
chân luôn không ngơi nghỉ ( mò cua xúc tép, gánh chè, bán trứng , đi lễ đền )
- cả hai sống trong nghèo khó và chiến tranh ( đi chân đất, củ going luộc
sượng, bom Mỹ dội bay nhà )
- có một niềm tin vào thần
thánh tiên phật ( mùi huệ trắng,nhang trầm thơm )
- cháu đi bộ đội- bà cũng đi
về với tiên phật
2. Nhà
thơ tả nhiều về bà, ít về mình :
- níu váy bà : Bàn tay cháu thật nhỏ bé,
chiếc váy là biểu tượng của phụ nữ nông
thôn Miền Bắc xưa , là sự tần tảo, cần
cù, hy sinh, nhân ái,bao dung mà dành cho cháu.
-
thập thững : lê những bước cao, bước thấp, liều lĩnh, mò mẫm trên con đường
lầy lội, trong đêm tối, giá buốt, đói lạnh, đường xa,gánh nặng nhọc, cô đơn âm thầm , sức khỏe của bà
thì không còn nhiều gợi nỗi xót thương
của người cảm nhận
3. Giòng cảm xúc:
- chế giễu,trách móc sự hồn nhiên,vô tâm đầy
con trẻ của mình
- thương yêu bà
- biết ơn bà
3 .Vần : Cả bài thơ có cách gieo vần dựa vào âm của các địa danh : chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Sòng, đồng
Quan, ga Lèn ,
những từ ngữ liên quan đến tôn giáo tiên phật thánh thần, chùa chiền, cô đồng và từ tả thời tiết
rất ấn tượng đêm hàn. Âm hưởng dư vương ở những từ đồng âm khói trầm thơm, điệu hát
văn như
quyện chặt với những vần khép và ôm của bài, chở theo một cảm xúc gắn bó ,,thiết tha .Đây là lối gieo vần của
thể thất ngôn trường thiên, chỉ một vần duy nhất, tạo không khí bi tráng của
thể hành .
- vô số địa danh được nhắc đến, ở
huyện Hà Trung( quê ngoại tác giả ,
tỉnh Thanh Hóa ) và thành phố Tam Điệp ở tỉnh
Ninh Bình . Tác giả chỉ dừng lại
ở đó, nhưng chúng ta thấm thía nỗi khát
khao no đủ, yên bình trong lòng bà và
biết bao khó nhọc bà phải trải qua, cũng là niềm thương, nỗi buồn của nhà thơ
dành cho bà .
- Đò Lèn :
Khu vực Đò Lèn (khoảng 3 km2) có Cầu Đò Lèn nhà ga, hệ thống
kho hàng, bến bãi, trường học, bệnh xá, cơ quan nhà nước và khá đông dân cư.. Nhà thơ sống ở dãy
nhà không số, mái rạ xen lẫn mái ngói. Người dân phố Lèn lúc bấy giờ kiếm sống
bằng đủ thứ nghề. Sông Đò Lèn
là một nhánh của hạ lưu sông Mã chảy qua địa phận huyện Hậu Lộcvà Hà Trung(quê
ngoại ) rồi đổ ra biển. Cầu Đò Lèn là huyết mạch giao thông quan trọng trên
quốc lộ IA và đường sắt Bắc-Nam Ga Lèn
là sân ga xe lửa bên bờ sông Lèn
-Tác giả : Nguyễn Duy tên là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, tại quê ngoại huyện Hà Trung, lớn lên
theo cha về sống tại phường Đông Vệ, TP. Thanh Hóa. Năm 1966, ông nhập ngũ làm lính đường dây của bộ đội thông
tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường 9 - Khe Sanh,
Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới phía Bắc (năm
1979).
. Xuất ngũ ông theo học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
. Xuất ngũ ông theo học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Nhân vật trữ tình : Đọc kỹ bài
thơ , ta thấy tác giả kể lại những chuỗi ngày sống bên bà , từ lúc còn rất bé ,
khoảng lên năm ( níu váy ) cho đến tuổi
biết leo trèo , nghịch ngợm ( leo
lên tượng Phật, trèo cây trộm quả )rồi
tuổi thiếu niên ( đi xem lễ cúng trên
đền ) Ông sống hồn nhiên, vô tư. không bận
tâm đến sức mạnh thần linh và nỗi vất vả của bà
Năm 1982,
lúc này ở tuổi tam thập nhi lập,
thấu hiểu phần nào lẽ đời, người bà đã
đi xa, người cháu mới “ nhìn thấy” : cuộc sống đầy lao
khổ của bà vì cháu. Bà qua đôi mắt của người cháu từ bé đến lớn là một người
xuất thân thuộc giới lao động
nghèo ( tần tảo nhiều nghề ở phố thị lẫn nông thôn để mưu sinh , cuộc sống thiếu thốn) có
một đức tin mãnh liệt vào thế giới thần thánh, bà rất yêu thương cháu .
Ở đây, nhân vật trữ tình là tác giả . Người bà là hình tượng
cao đẹp để tác giả bày tỏ nỗi niềm .. Có một nhân
vật để tác giả bộc bạch tâm sự ,
đó là độc giả .Vì vậy mà ông xưng “ tôi “ thay vì “ cháu”
1
. C uộc sống
trong đời thường của hai bà cháu :
- Người bà xuất hiện vơí trang phục truyền thống của người phụ nữ xưa
( mặc váy) Quần không
đáy, "vừa
bằng cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên Tàu thì không", Nhà thơ Anh Thơ đã viết “Quanh bếp ấm nồi bánh chưng sùng sục, Thằng cu con dụi mắt cố chờ ăn Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen rức, Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm (Đêm ba mươi tết, 1941) Từ “váy” với thời
điểm của tác giả , những năm 1950, có thể hiểu
nhiều nghĩa : người bà luôn có ý
thức gìn giữ phong tục tập quán đẹp đẽ của người phụ nữ xưa ( lam lũ, hy sinh, lạc
quan ,giàu lòng nhân ái ,sống đức độ ).
và rất nghèo . Danh từ váy còn mang giá
trị hoán dụ, chỉ cả con người bà, tấm lòng yêu cháu bao la của người bà hẳn
tuổi đã ngũ tuần . Từ “ váy” còn cho
thấy sự lam lũ,vất vả của bà vì mưu sinh : mò cua xúc tép, đi gánh chè lá,
đi bán trứng . Bản thân cụm từ “mò cua xúc
tép” gợi lên bao gian khổ . Thành ngữ “ mò cua b ắt ốc” thường gắn liền với
cuộc đời những người lao động nghèo, không có đất sản xuất, phải làm công việc ở thế cùng đường ( vô nghề đi tát, mạt
nghề đi câu). Hai câu thơ “bà đi gánh chè xanh Ba Trại ,Quán
Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn” dưới hình thức là một câu
thơ vắt giòng , bởi chỉ có một chủ ngữ ( bà ), nhưng để rõ nghĩa, cần phải bổ
sung một chủ ngữ “ Dáng bà thập thững
những đêm hàn”. Chè xanh Ba Trại ở vùng
Tam Điệp (Ninh Bình) là một loại chè ngon nổi tiếng có lịch sử lâu đời
từ vài trăm năm trước (Muốn ăn cơm trắng cá mèThì về Ba Trại hái chè với anh".). Nhưng vùng này , khoảng những năm trước 1960( khi tác giả còn bé ) đền Quán
Cháo( xứ Đồng Giao ) là một miếu thờ nhỏ lọt thỏm giữ bốn bề lau lách. .... Nhắc đến Đồng
Giao Quán Cháo hồi ấy, người ta nghĩ ngay đến hổ. Hổ dữ đã trở thành nỗi khiếp
đảm với người dân bản xứ và những công nhân Nông trường Đồng Giao Con đường
trước cửa đền – bây giờ là QL1A- một lối mòn nhỏ nằm vắt qua một con suối lớn
chảy từ Hoà Bình về, mùa mưa lũ hay mưa phùn vào đông thì lầy lội , việc qua lại rất khó khăn. Bà “ thập
thững” , lê những bước cao, bước thấp, liều
lĩnh, mò mẫm trên con đường lầy lội,
trong đêm tối, giá buốt, đói
lạnh, đường xa,gánh nặng nhọc, cô đơn âm
thầm , sức khỏe của bà thì không còn nhiều gợi
nỗi xót thương của người cảm nhận. Câu thơ chín chữ, có thể thừa từ “
những” nhưng chính từ những mới cho thấy
sự lam lũ triền miên , đi cùng từ
“ đêm hàn” ( thay vì đêm đông ) càng thấm thía sự hy sinh to lớn của bà vì con,vì cháu. Những địa danh này ở tận Ninh
Bình, vùng giáp ranh với Hà Trung, Thanh Hóa, mới biết bà lặn lội xuôi ( đi mò cua ở đồng nước ) lên ngược (
lên dãy núi Tam Điệp ) để mưu sinh . Ai qua Quán Cháo - Đồng Giao.
Má hồng để lại, xanh xao theo về”. Câu ca ai oán ấy nói về một thời hoang vu
của vùng đất Tam Điệp (Ninh Bình) Không rõ bà
đi gánh thuê cho người ta để lấy tiền
công hay đi buôn và tự mình gánh về Hẳn
là bà ở vị trí thứ hai. Dáng “ thập thững” của bà thật ám ảnh biết bao.
Rồi bà đi bán trứng . Hình ảnh này khiến chúng
ta nhớ đến bài ca dao Mười cái trứng. Người nông dân chắt chiu mua về, nhưng
đem ấp thì bảy trứng ung, ba con nở ra thì “ con diều tha, con quạ bắt, con cắt xơi” . Nhưng chủ nhân vẫn lạc quan
: Chớ than phận khó ai ơi, còn da lông mọc còn cồi nẩy cây”. Câu thơ này
nằm cuối một đoạn thơ đầy đau thương, căm hận Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay
mất , Ngày 03/4/1965, từng tốp máy bay Mỹ từ phía biển xuất hiện, gầm
rú như xé nát bầu trời, trong chốc nhát bổ nhào ném bom đánh phá dữ dội khu vực
Cầu Đò Lèn, nhưng không làm người bà nao lòng: bà tôi đi bán trứng ,ở ngay nơi
ác liệt nhất. Bà là người phụ nữ kiên cường .
Nhà thơ
đã đúc kết tất cả sự lao nhọc, vì yêu thương người khác , cả cái nghèo của
bà bằng một từ đầy lòng tri ân
: bà tôi cơ cực thế Cơ là đói
kém,mất mùa , cực là sự nghèo khổ, lao
động nặng nhọc.Phó từ “ thế” (lắm, rất )như tô đậm cuộc sống khó khăn,vất vả, thiếu thốn của bà, mà tất cả cũng vì cháu mình , nhà
thơ đấy . Ở đây, có nét nổi toát
hiện lên từ trong con người bà : rất thương yêu cháu Vẫn thấm thía câu “ tình ngoại mang nhiều máu
mẹ”
- Tình cảm cháu dành cho bà như thế nào ? Nhà thơ liệt kể một kỉ niệm đẹp bên bà “ níu váy bà đi chợ” . Biết bao ý nghĩa ở từ này. Níu là động từ ở đây có nghĩa là “ kéo xuống, nắm giữ thật chặt, không dám buông ra vì sợ, nhưng thích thú, yên tâm ,vui mừng vì đó là “váy bà” . Níu váy đi chợ thì ắt hẳn sẽ có quà bánh . Cuộc sống thiếu thốn trong chiến tranh ( đi chân đất xem lễ, củ giong luộc sượng) đất nước không có sự yên ổn (bom đạn giặc ), mà cháu lại vô tư, hồn nhiên sống, có lẽ nhà thơ khi ấy chưa ý thức được , “ đâu biết bà cơ cực thế”, cứ thản nhiên tận hưởng cuộc sống (quà bánh,leo trèo nghịch ngợm, bên những trò đùa tuổi thơ rong chơi trong khi bà vô cùng gian nan vất vả kiếm sống . Hàng loạt động từ bên cạnh từ níu : ra cống Na câu cá, bắt chim sẻ trộm nhãn , lên chơi đền ,đi đêm xem lễ , mà không hề có một câu nào kể lại hành động giúp đỡ bà, cũng không hề có một lời nhắc nhở, trách mắng của bà về lỗi lầm của đứa cháu. Có thể vì hiểu cháu vắng bố mẹ bên cạnh, hơn nữa,cái quan niệm dân gian “Cháu ngoại vác mai qua mồ” hay “ cháu bà nội , tội bà ngoại” lại có câu “ cháu hư tại bà” ám chỉ những bi kịch bà và cháu ngoại. Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế Mà cháu lại vô tư, hồn nhiên sống, có lẽ nhà thơ khi ấy chưa ý thức được
2. Quan niệm về tâm linh của bà và cháu :
- bà thường viếng chùa ( có Phật bà quan âm ) đền ( thờ
Mẫu ) để phó thác cuộc đời gian khổ của mình và cháu , để cầu mong các quyền năng
bảo trữ và che chở con người của thánh thần . “ Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh”. Người xưa từng ngưỡng
vọng và bà của nhà thơ cũng có một niềm tin như thế . Đền Sòng, tín ngưỡng thờ
Mẫu Việt Nam là một tôn giáo bản địa ,lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần
tượng . Mượn hình ảnh Đền, Cô đồng, tác giả như muốn nói cuộc sống an phận,
nhưng muốn đề cao bà ngoại,một biểu tượng của người phụ nữ, Thánh Mẫu giàu lòng
nhân ái, hy sinh , ngày đêm bảo bọc chở che nhà thơ .Hoa huệ trắng đại diện cho lòng trung thành, tái sinh và tinh khiết,
mang những phẩm chất cao đẹp của
phụ nữ( cần cù, giản dị, hy sinh ), giải tỏa nỗi đau trong lòng khi có sự mất mát , khát vọng no
đủ cũng để ca ngợi bà mình . Hai câu thơ có cùng những
hình ảnh và cảm nhận “mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm.” như càng tô đậm tấm lòng tin tưởng vào thần linh của bà , đấng tối cao có sức mạnh bảo vệ người ngay lành, đuổi ma quỉ đi xa
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm.” như càng tô đậm tấm lòng tin tưởng vào thần linh của bà , đấng tối cao có sức mạnh bảo vệ người ngay lành, đuổi ma quỉ đi xa
- người cháu có vẻ thờ ơ với đức tin của bà , cho rằng mình “trong suốt giữa hai bờ hư -
thực, giữa bà và tiên phật thánh thần”. Trong
suốt là một tính từ miêu tả, chỉ một vật như gương có thể nhìn thấy tất cả
bên trong , nhưng đây lại mang ý nghĩa
tâm trạng: sự vô tâm , thiếu đức tin tôn
giáo của người cháu Thaí độ này càng lộ liễu khi chàng trai
tuổi lộc ngộc nhận thấy
thần thánh không thắng được ma quỉ, bom đạn “Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất ,đền Sòng bay bay tuốt cả chùa chiền ,Thánh với Phật
rủ nhau đi đâu hết” .Một loạt cụm từ
đồng nghĩa “nhà bay mất, đền chùa bay tuốt,
Thánh Phật đi đâu hết” Các đấng bậc
thần linh tạo cho nhân dân một sự tin cậy vào sức mạnh siêu nhiên của họ (
tránh nghèo đói, tai ương, bom đạn )là
cõi hư vô này đã thỏa hiệp với nhau ( rủ nhau) quay
lưng trước nỗi khổ vô bờ của dân lành , yếu
thế trước bọn giặc vô cùng tàn bạo . Dường như nhà
thơ không chế giễu tấm lòng trông
cậy mãnh liệt của người bà già nua trước
thần phật mà tỏ thái độ. chất chứa nỗi chế giễu, khinh bỉ và căm giận kẻ
thù gây ra cảnh tàn phá này . Nhưng đây là động cơ thôi thúc
anh ra trận .Anh , người cháu trai
tráng mới có thể bảo vệ bà, chứ không có
tiên phật nào cả .
Tuy nhiên, ý nguyện của bà là mong anh nhận được sự bình an trước thánh thần , khi vui
chơi, khi đói khổ “cái năm đói củ dong riềng luộc sượng,cứ nghe
thơm mùi huệ trắng hương trầm hay “chân
đất đi đêm xem lễ đền Sòng ,mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm” Trầm hương là một phần không thể thiếu
được trong các nghi thức tôn giáo, phong thủy và tâm linh. tẩy uế trừ tà.
3 Bây giờ, anh lại tìm đến bên bà :
- cuộc số vẫn
phải chấp nhận những qui luật mất mát,đổi thay(
dòng sông vẫn bên lở bên bồi) . Một qui luật buồn thương khác là bà anh chỉ đi với anh một quãng đường thôi, nay bà đã về với tiên
phật.
- nhưng anh lại muốn có sự trái qui luật nào đó : anh ân hận , day dứt, bởi “ tôi Tôi
đâu biết bà tôi cơ cực thế”“khi tôi biết thương bà thì đã muộn”. Câu thơ mang theo tiếng khóc nức
nở của ngươi cháu .Lẽ ra thuở còn
có bà bên cạnh, anh phải hiểu bà nhiều hơn .
Cả bài thơ dồn lại ở động từ vừa
là cử chỉ, vừa là tấm lòng, cũng là nhận
thức “ biết thương bà” .
Cả cuộc đời bà, nhà thơ chỉ một lần
bắt gặp bà được thong dong, nhưng đó là thong dong trong đói kém ,
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng Củ dong riềng, một loại thực phẩm dùng làm bún miến; loại củ này luộc
rất lâu chín . Luộc sượng là luộc chưa
chín .Lúc thiếu thốn, gạo cơm không có, củi lửa cũng phải tằn tiện . Còn lúc nào tác giả cũng thấy bà tất bật, đi
chợ, đi mò cua xúc tép, đi gánh chè, đi bán trứng, cả tìm đến nơi
thiêng liêng có bà có cháu : đi chơi đền, chân đất đi đem xem lễ .tay cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm hay “chân đấ
t đi đêm xem lễ đền Sòng ,mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm
lắm Và
lúc bà được ngơi nghỉ thì… bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi. Thương bà biết bao
nhiêu!
Suốt bài thơ, chỉ có một ngôn ngữ giản dị đến tận cùng, như lời ăn tiếng nói hằng ngày trong
chuỗi năm tháng từ tuổi thơ đến trưởng
thành của tác giả bên cạnh người bà thân yêu.
Bài thơ có nhan đề Đò Lèn,
là nói đến cả một vùng quê nghèo của mà giàu tình"; "đơn sơ mà phong phú"; "khổ cực
mà thông minh"; "anh dũng vô song"! Vùng đất "địa linh nhân
kiệt", vùng đất "phát tích của những vương triều"( tổ tiên triều
Nguyễn ) vùng đất "của những con người mở đất về phương Nam"; vùng
đất của những "danh thắng" nổi tiếng, vùng đất của những "đền
chùa miếu mạo"; vùng đất "cửa ngõ phía Bắc Xứ Thanh" , trong đó hiện lên một người phụ nữ Việt
Nam như một biểu tượng đẹp đẽ của tình thương, hy sinh, lam lũ, lạc quan , nghèo khó
Có thể mượn lại
câu nói của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: "Tâm hồn tuổi thơ Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn trái tim nhà thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất
hoang đó."
No comments:
Post a Comment