Sunday, July 28, 2024

QUẢNG TRỊ VÀ NHỮNG CHÀNG TRAI HỌ BỒ ĐỀ.

    QUẢNG  TRỊ  VÀ   NHỮNG   CHÀNG TRAI HỌ  BỒ ĐÊ.

                    Thành  kính tưởng nhớ các anh  ra đi từ  trường Bồ Để   Dalat và  Quảng Trị.


 



Hiếu  nhớ  lại    dịp Tết năm  1976 ,  đưa Nghĩa về thăm  quê cụ  Xán  ngoài Nghệ An,ở lại  chơi cả tuần nơi nhà  ông bố vợ  Dương, ông Tính.Ông  có  cô em út   là giáo  viên cấp  ba,học  sư  phạm  Vinh,lấy chồng  đóng quân trong tận Quảng  Trị,  thế  là theo chồng vào đây từ  ngay sau  1975. Biết tin ông anh cả  về hưu ,lại vừa goá  vợ,  đang ở  với con  trai tại  Nghệ An ,chị muốn đón anh vào sống  cùng.  Như  vậy hẳn  ông   Tính sẽ dẫn  Nghĩa đi cùng.

Hè năm ấy,họ có mặt ở Quảng Trị.  Mấy năm  trước đó, Ông Tính rất chịu khó  ngồi biên  thử kể mọi chuyện về  Nghĩa,chắc  chắn là  mong   vợ chồng Hiếu yên tâm,và thế là,Hiếu  biết thêm   nhiều  điều  về Quảng Trị,miền đất  đã  một lần Hiếu đến với Đường   và những  người con của ông Định,miền đất có duy  nhất  một lần”đôi co”với người mẹ  đã rất  xa của con bé  Mi chị ( Phùng Hằng),bây giờ  Nghĩa lại ở đó,và có thể sẽ sống ở  đây.Người em gái tốt bụng của   ông Tính  ghi thư cho  Hiếu,chân thành và tha thiết : dù chúng tôi chỉ là thông gia,nhưng các con tôi rất quí cháu   Nghĩa,  coi  như  một thành viên  ruột thịt,nên chúng tôi  chọn  miền đất nắng gió này làm  quê  hương,thì  cháu  Nghĩa cũng vậy .

Ông Tính  xuýt  xoa :

-Úi,hồi tui đến,là  năm 72,73 chi đó,   vì theo xe    chú  em rể đi,  đâu đâu cũng chỉ thấy đổ nát,    tan hoang. Chừ mấy năm rồi,may ra đỡ  hơn.

 Hiếu thấy trước mắt  một  ngôi nhà thờ    gạch khá đồ sộ,nhưng  bây giờ ,mùa hè  1973  ,dấu  vết còn lại là hai   bức vách  dài    sâu hai bên, và một bức  ở cuối  nối hai vách kia,hẳn là  bờ tường cung thánh,nơi  có  treo cây thánh giá  lớn,bệ thánh  để các  linh mục thực hiện các  nghi lễ.Mái  ngói đã    tung   hết,chỉ còn     nhiều thanh gỗ    xà nhà, đứng  bên trong thấy  nắng chiếu  loang lổ trên nền cũng ngổn ngang  đầy  những    đống  cây vụn, có lẽ  trước kia là  ghế  ngồi dành cho giáo   dân,những bàn  quì  nhỏ nho   sau các hàng ghế.Hai bức vách  phải trái của ngôi   nhà thờ  cao vòi vọi, còn  sót  nhiều cây cột trụ  to    đắp tượng hình nổi  các thánh.Một   nơi mà  hằng ngày, hằng tuần vẫn có  biết bao     người dân tìm đến  để  giải toả  nỗi lo  toan trong  cuộc sống,bây giờ … Không ai bảo ai, mọi  người đến thăm chỉ đứng ở bậc tam cấp dẫn  vào  bên trong  gian chính của nhà thờ, kính cẩn  cúi đầu làm dấu thánh  giá.  Biết bao con  người đã nằm xuống nơi này,và  nhờ  những bức tường đá vững chãi  cao vòi vọi kia,mà biết  bao con  người tránh được làn tên mũi đạn  .  Độ hơn hai mươ i năm sau,   khi cả gia đình Hiếu  ra thăm  Nghĩa, vì  lúc  này  hai vợ chồng  người em Ông Tính    cũng đưa ông và  Nghĩa    cùng chuyển ra thị xã Quảng Trị,  cũng là lúc hai cô con  gái    hoàn thành  chương trình học đại  học   khá  gian nan,  sau hè này  sẽ đi học lên  một  nơi cách quê  hương nửa vòng trái đất,hối thúc  Hiếu “đi thăm bác  Nghĩa “.Bông có chứng say xe,  nhưng  cả  nhà   động viên :

- Có thuốc mà,với có  bao nhiêu  người bên cạnh,lo  gì !

Mỗi  người một tâm trạng. Bông  thì vui  lắm.Hai cô con gái  m ới ngày nào  còn đỏ hỏn, nay đã là  những thiếu nữ  đôi mươi,tươi như hai đoá hoa,hồn nhiên,lại  tràn đầy tự tin.Cả xóm nhiều  người  khen pha nỗi  tỵ  nạnh: Nhà đó mà có hai đứa con gái thật.. ngon ! Các nàng   từng nghe bố mẹ  nhắc đến  đầy tai  về ông bác  rất ư là đặc biệt này. Bố  Hiếu còn gọi  bác  Nghĩa  bằng  một  biệt danh đầy kính trọng,Tía; vì   với Bố,cuộc sống hôm nay của  Bố,có một nửa là của bác  ấy,cứ như là “một cặp  không thể tách rời”,mẹ thì hễ hai chị em có   gây sự v ới nhau-thì bởi cùng    sinh  ra trong một thời điểm,lớn lên trong  một nhà, cùng đi học, cùng vui chơi, mà là con gái,thì cũng có lúc bất đồng ý kiến, rồi  cũng va chạm,rồi  ghen tỵ, rồi giành giật,  - là  mẹ quát :

- Có  thôi  không ? Phải học  gương bác  Nghĩa với bố mày đấy.

 Thế rồi mẹ  ngồi kể lể,nào là,hễ ông này  đau là ông kia lo sốt vó,ông kia có  miếng gì  ngon là  nhịn cho ông này, Ông   kia   được  ra  phố  học,  trước đó phải  tìm nơi gửi gắm ông này,ngày đêm không bao giờ  quên ông này,còn hơn cả cha thương con nữa,rồi : ông  Hiếu  chỉ lấy mẹ vì mẹ  đồng ý  để ông ấy đón bác Nghĩa về sống chung,chứ  các cô  khác,họ nào  chịu.

 Hai nàng tò mò :

- Vậy bác  Nghĩa  hơn ba  bao  nhiêu tuổi ?

 Hiếu ngần ngừ :

- Tại hồi ba vào trong Viện Dục Anh   còn nhỏ lắm,đâu mấy tháng thôi,thì  bác  Nghĩa đã ở đó. Vì  khi ba có  ý thức, độ   năm tuổi,thì  bác ấy và ba được kết đôi,chỉ  vì  bác Nghĩa rất hiếu động,còn ba lại  tật ở chân,đi  nẹp,các cô luôn phải canh chừng .. Hình như lúc đó bác ấy cũng chỉ   năm sáu tuổi thôi.

 Giờ ra thăm  thì chúng mình nên mua quà gì cho bác ấy  đây .Áo quần vùng nhiệt đới,thì bố mẹ đã sắm, bánh kẹo thì  nay bác ấy cùng độ tuổi với ba,là gần ngoài  năm   mươi,ai lại còn thèm  ngọt.Bông bảo :

- Tụi bay sắm cho bác ấy  một cây gậy , cả ba mày cũng vậy.Hồi trước hễ ông này có món gì, là ông kia cũng phải có. Mẹ nhớ ngày hai ông theo Bác Dương về quê, mẹ bế tụi bay tiễn ra cổng mà thấy buồn cười:hai ông  hai nón,hai áo ấm,hai ba lô, hai đôi  dép,y như  nhau.

 Hai cô gái kêu lên:

- Như  tụi con,hai  kẻ  sinh đôi.

 Hiếu gật gù :

- Ừ, sắm gậy tặng bác ấy, vì    ông này cũng có tật đi  nhón chân.Tuổi năm mươi,rồi qua  sáu mươi,bảy mươi mấy hồi.

  Sẽ có  những nơi  Hiếu  muốn trở lại ở  Quảng Trị.Bờ sông Thạch Hãn,hè năm 1973,  cuộc  tiễn đưa   các   tù  binh   hồi  hương   quê,  nơi mà  những du học sinh năm ấy về thăm   nhà,  được đưa ra  đây,được  nhắc   nhở   về trách nhiệm với  quê   hương,  nơi Đường thì thầm vào tai  Hiếu,rồi hoà bình sẽ đến thôi... ;  và  ngôi nhà thờ đổ ngày nào . Bây giờ còn  một nơi nữa .  Một ngôi trường tư thục trong thị xã,nơi  này cả  Hiếu và  Đường đều có  những   người  bạn cùng theo học, và họ cũng đều đã đi rất xa ..

  Người em   rể của ông cụ Tính   bây giờ đã chuyển  sang làm quản  lý  một công ty vận tải lớn ở miền Trung,nên  giúp   các vị khách phương xa thuê một chiếc ô tô với giá thật đặc biệt, khiến việc đi lại  những nơi mọi  người dự định  thật   dễ dàng.  Hiếu   nắm chặt tay  Nghĩa.Ông này về đây, hợp  cảnh,hợp  người,  da dẻ hồng hào,tóc vẫn đen nhánh,ngó như trai ba  mươi.  Nghĩa  vẫn  cứ vô tư  như  ngày nào. Không bao giờ  buồn,  không  hề một giây lo lắng,  đến  bữa thì ăn,  đến giờ thì  ngủ,  chân tay không lúc nào ngơi việc, ai trêu cũng chỉ cười,ai nói  khích cũng không giận, mà lặng thinh,  coi ti vi thì chỉ    mê đá bóng, à thế là vẫn không ưa phụ nữ,các cô có chân cẳng như  ..chân con nhái (?)   vẫn thích  chơi đùa cùng trẻ.Hai thiếu  nữ thì    vô cùng thích thú vì  bác Nghĩa vẫn nhận ra chúng nó :

- Con Mi chị mặt tròn,con Mi em mặt thon nhọn.Đứa  giống cha, đứa  giống mẹ.

Hai nàng đều   bất giác  đưa tay lên sờ  má.Câu  nói “Đứa  giống cha, đứa  giống mẹ.” chúng nó đã  nghe cả  ngàn vạn lần,mỗi khi có  người thắc mắc, từ dân làng,  bạn bè của bố mẹ, thầy cô, bạn bè của chúng, cả  những  người   đi  đường “  ừ biết là sinh đôi,  cùng tuổi tác,vóc dáng, trang phục,mà mặt mũi thì ..hơi  khác “. Ông  bác mấy chục năm  mới gặp lại,ngày ông rời  quê cũ ra đây,hai đứa bé chỉ mới  biết đi lẫm chẫm,mà ông nhớ :

- Con Mi em là khóc dai,con Mi  chị thì  gào to phải biết.

 Cả xe cười ồ. Vậy  là đâu có  đứa nào thua đứa nào. Tên Mi cũng do bác đặt  cho. Bông nói,khi đưa hai  contừ  nhà  thương đẻ    về,là phải đón bác  đang gửi ngoài nhà  ông bà Đảm mấy hôm cùng  về, vì  bố Hiếu lo mẹ đi đẻ,bố đi làm , không ai canh chừng.Ở nhà ông Đảm, mọi  người rất vui vì biết  vợ Hiếu sinh một lúc hai “con mèo “, vậy là bác   Nghĩa buột mồm:

- Hai con mi mi .

 Gọi là mi mi vì nhà Hiếu có con mèo cũng đặt tên đó. Dù  đã  ghi tên  khai sinh là Phùng Hằng,Phụng Hằng,gọi gọn là Phùng,Phụng, nhưng gọi Mị chị,Mi em  nghe  gần gũi hơn. Bà Phượng là hàng xóm  kế bên lại có anh con trai tên  Phùng,chị con gái tên Phụng,nên,dù là  ngẫu  nhiên,vợ chồng Hiếu cũng   rất ít gọi con bằng tên  khai  sinh,vì   ngại đụng chạm.Ở  đây, có  người tức khí hàng xóm, bèn lấy tên ông ấy đặt cho đứa bé con mình,thế rồi   suốt  ngày cứ mắng con, mà thực ra là     xỉ  vả  hàng xóm cho bõ tức .  Ông Đảm còn bảo, khi sinh  Đài,cứ đặt tên nó theo ý mẹ nó, nhưng  một hôm,có ông  cụ trong họ tộc bảo,gọi tên khác,vì tên này … là tên bố ông ấy.Thôi khai sinh đã lỡ,ở nhà gọi nó là Bé, cho tiện .

 Bây giờ hai con Mi Mi,  với hai ông một thời là  hai gã dính lẹo, và bà mẹ,ngẩn ngơ đứng trước  ngôi nhà thờ đổ  ngày nào.  Hiếu  vẫn có cảm giác  như Đường đang đứng bên cạnh, nét mặt  đầy thành  kính . Đường được  một  người con của ông Định nhận đỡ đầu  trên con  đường hoạt động cách mạng, để tạo một  vỏ bọc an toàn,vì vậy anh được rửa tội,  nhận tên thánh, đi nhà thờ dự các thánh lễ thì được nhận bánh thánh ,trở thành kẻ tái sinh làm con Chúa. Về đây,    lòng Hiếu chợt  chùng  xuống. Bao lo toan, bon chen , giành giật, xuôi  ngược bôn ba, tâm trí  căng thẳng, nay thật   an bình .  Hình ảnh   ba bức tường màu trắng,    nền nhà ngổn ngang   cây gỗ vụn khi  chiến tranh  như tạm dừng ở đây , ngày ấy có  Đường  bên  cạnh, nay trơ  ra   mấy bậc tam cấp rất rộng và dài, bao quanh  cỏ dại dày và xanh um,  phủ kín lối đi. Từ mấy bậc tam cấp nhìn lên,bức tường  trên  cung thánh   không còn cây thánh giá,  nhưng  các ô cửa hình chữ nhật, hiện lên rất rõ, dựng  song song, cân đối,khiến cho   khu khung thánh sáng sủa hơn, vì  bên trong ba bức vách, qua thời gian, rêu xanh phủ kín,màu mốc xám, màu gạch đỏ loang  lổ ,hẳn nếu tìm đến  một mình,hẳn sẽ thấy  lành lạnh,bóng tối   vây bủa . Như có tiếng Đường bên tai :

-Nào,cậu cầu  nguyện với tớ  nhé. Xin Ơn Trên ban  bình an cho tất cả chúng con.

Họ  chớm đi ra thì có  một phụ nữ  bước vào. Chị  có  dáng cao dong dỏng,  gương mặt  hiền  dịu và   nghị lực của   người miền gió cát,tóc búi dài,   cầm chiếc nón lá  vừa vội gỡ  ra để  hai tay  chắp lại, cúi lạy.Chị  bận chiếc áo xanh biển  đậm,quần vải đen,đi đôi dép  nhựa   hồng.Theo sau chị có một chú chó    ngộ  nghĩnh, chân   rất dài, lưng cũng dài, lông  trắng  tinh, ngắn  như  dính sát vào da   khiến  vóc dáng chú  cún này tròn lẳn, nhưng cặp mắt rất sắc.Chủ  nhẹ nhàng,khép nép đi trước,tớ   lon ton  bước theo. Người phụ nữ  khẽ khàng  để chiếc nón lá trắng  lật úp  ngay ngắn  qua một bên,rồi   dọn tư thế   quì đầy  nghiêm trang, ngưỡng vọng, chú chó  nhìn lưng chủ,rồi có lẽ nó biết đoàn khách phương xa cũng đang  âm thầm  theo dõi   một  giáo dân tìm đến viếng cung thánh, nên   chú cún  lập tức  quay  người ra,đứng  thẳng một hàng với chủ đang quì, đầu nó hướng về các vị khách, miệng khẽ gầm gừ,mắt long lên  sòng sọc, như muốn bảo : hãy để cho chủ tôi cầu  nguyện, đừng có  gây sự. Ai nấy bấm tay nhau,  như bảo , thôi ta nên đi.Nhưng  vừa khi ấy,một bóng  người cao to, tóc vàng, kính cận trắng,   đeo máy ảnh. Anh ta đã kịp  nâng khung máy  lên, và  một tia đèn chớp loé.Mấy    cú bấm liên tiếp.  Người phụ nữ vẫn lặng lẽ cầu  khấn, còn chú chó vẫn gầm  gừ rất  dữ dội trong cổ họng,mắt không ngớt  ném  những tia cảnh giác về  đoàn  khách,nay có thêm một   nhiếp ảnh gia  nước ngoài .

Một người Mỹ, một nhà báo,đi du lịch kết hợp công việc.  Anh ta cho  mọi  xem những bức ảnh vừa chụp. Qua ống kính,hình ảnh  khuôn viên bên trong  gian nhà thờ đổ bỗng hiện lên thật  sống động,ấm áp với    khoảng không có  rất  nhiều vuông cửa chữ nhật   chứa đầy ánh sáng trên   vách  tường rêu xanh  xám, vóc  người giáo  dân ngoan  đạo  nhỏ bé, khiêm nhu, tín  cẩn,khép nép  trước  khung thánh, bên cạnh màu trắng nổi bật của chiếc nón lá lật úp, tạo thành một  khối tam giác,  ngay phía  sau là chú chó lông trắng toát, cổ  ngước lên cao, tư thế bảo vệ.  Toàn khung  cảnh của      ngôi nhà thờ   bỗng   tươi  sáng, sinh động với  những gam màu  khá hài hoà,màu xanh của rêu,của cỏ,màu trắng của chiếc nón lá,   người phụ nữ  áo quần màu tối,    đôi  dép hồng và  chú  bạch  khuyển . Cảnh  không còn   tĩnh  mich, mà   đầy  sự sống. Đường  vẫn ở đây, Hiếu chợt có cảm giác    thật  rõ .

Họ đứng  đấy ,chờ đợi.Người phụ nữ lặng lẽ  ra ngoài ,nét mặt đã bình thản hơn.Chị đội nón ,bước đi,chú chó trắng   lon ton bên cạnh. Hẳn chị đã đến đây nhiều lần lắm rồi..

 Đoàn  khách phương xa, cả   người phóng viên  ngoại quốc,lại chia nhau các bậc tam cấp  trước khung thánh.Họ  đứng, chắp tay , mỗi  người một  lời  nguyện chân thành

.   Cả  người  khách cùng  đoàn của  Hiếu tìm đến    Trường Bồ Đề ngày  nào .Người bạn của  Đường, ngày tuổi học  đệ thất từng  đến học ở đây. Đường kể   anh ta bị đọc tên đuổi ngay  giữa  lớp,một ngày cuối đệ  thất, mùa hè vừa tới.  Người bạn  bảo  nhỏ với Đường,hôm qua chị tao,đang học sư  phạm tiểu học  ngoài Bình Định  cũng bị   kêu lên văn phòng,buộc thôi học. Vì  người  bố của họ  bị bắt và   hy sinh trong nhà lao Thừa Phủ,Huế.  Lúc đó,  Đường cũng chuẩn bị vào miền cao  nguyên. Mấy năm sau, bỗng Đường nhận thư gửi từ  Quảng Trị vào. Bạn kể đang theo học ở đây,vì  do bị đuổi,nên  không có trường công  lập nào nhận hồ sơ cả. Bạn viết thêm,tớ học ở đây, cũng gặp  các anh từng có  bố mẹ đang hoạt động vùng như nhà tớ. Rồi bạn cũng    gia nhập đội  điệp báo miền,và hy sinh.

Ngày  bọn  Hiếu tìm đến,năm  1973,  cả khuôn viên trường  đầy cỏ dại,bờ rào sập đổ,     cây cối  nghiêng   ngả, những bức vách tường chi chít  vết đạn,   có  nhiều chỗ trống hoác, nhìn thấy bầu trời trong xanh trên cao, mọi khung   gỗ  gắn cửa cũng đều   biến mất,chỉ còn những  khoảng  vuông trống rất to trên vách.   Lan can  chạy quanh lầu  đổ  sập xuống đất từng thanh dài, trơ nền xi măng, khiến cho   người vừa leo lên mấy bậc thang  từ tầng trệt dẫn lên đây ngập ngừng  khi  muốn bước thêm,  tất cả đều  vụn nát,  chỉ có  những khung thép của hai dãy tầng lầu vẫn sừng sững, nhưng  thoạt trông vẫn có thể hình dung  một cơ sở  giáo dục khang trang  một thời.  Hiếu chợt nhớ , dạo anh  làm  việc ở   khách sạn HD, trên Dalat, sau biến cố  Mậu Thân,có một đoàn lính lên cao nguyên  dự đám  cưới, vì cô dâu là  nhân viên  khách sạn,chú rể là đồng đội của họ, tất cả  đều là  những  thanh niên còn rất trẻ.Có một  người nhận ra Hiếu, vì   bàn chân đi  nạng và bàn tay sáu ngón của anh . Bạn từ thời ở viện Dục Anh. Nhưng chính anh  này    cũng là  bạn của  Đường , lẫn cả anh  chàng từng là bạn  thân thiết của  Đường  từ trường Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi chuyển ra . Hiếu tò mò, cả hai phá lên cười : là dân Bò  Đá cả !.  Anh bạn tạm gọi số một,  từ  mái trường  thuộc họ Bồ Đề ra đi, và  anh số hai này  cũng từng là học sinh ở  Bồ Đề Quảng Trị. Anh bạn  bảo, khi  Hiếu rời   viện mồ côi,người bạn   vẫn được ở lại,  khi  lên  trung học đệ  nhị   cấp,lớp  đệ tam,( lớp mười )  thì   có   người bảo lãnh ra đây, nhận làm giám hộ.  Rồi anh đỗ tú tài,đi sĩ quan  Thủ   Đức. Ba   thằng,đứa Dalat, hai đứa Quảng  Trị,mà quen nhau, thiệt tài.Họ nháy mắt, bảo quen vì   có lần dự trại   các quân khu,  Đường thuộc Quân khu Hai, hai  anh kia Quân khu Một ,tình cờ  kết  nghĩa.Hiếu phải  tin,vì cả ba  đều có  những   cuốn đặc san do trường Bồ Đề  Dalat  in, cùng  thuộc  “ Bồ  Đề hành  khúc “,cùng  từng tự hào  ngân nga “ đức  trí trau dồi luôn nhớ ghi công ơn bao  người”.

Một hôm  chợt Đường tìm  Hiếu, bảo,có nhớ cái tên  thiếu uý hồi đi đám cưới,là dân Bồ Đề vớ i tớ không ? Nó hy sinh rồi,mà là  người  của ta đó.Của ta ? Như vậy, anh ta  dù là sĩ quan từ lò Thủ đức ra, mà là  đồng chí của  Đường !  Và   một hôm, có tin  cũng từ  Đường, người bạn  cùng  quê, cũng từ một họ Bồ Đề,  từ Quảng Ngãi ra   Quảng   Trị,  anh này   vô chiến khu, cũng đã  bị đày ra Côn Đảo, và có lẽ.. Hiếu bỗng ứa  nước mắt.  Khi rời  Viện Dục Anh, Hiếu vẫn mong có ngày  cùng  Nghĩa gặp lại  nhiều  người bạn. Nhưng  phút  giây đoàn tụ  thật ngắn  ngủi, mà  giờ khắc biệt ly sao lê thê quá !

  Ngôi trường  vẫn  vẻ  đổ nát  mấy chục năm  họ trở lại.  Khu dân cư      vùng lân cận  đã  đông đúc, đẹp đẽ,vui tươi với  nhiều biệt thự khang trang ,cổ kính,ngôi trường nay bao quanh   khuôn viên  có bờ rào,nhưng  bên trong  vẫn nhữ ng   lan can sập xuống, những bức vách trống hoác do bom đạn, khung cửa trơ  khoảng trống,nhữn g mảng trét tường    bị bong đi, bày ra những  tầng  gạch táp lô  xây   nhà.  Trường cũ  của   ba   chàng trai  họ  Bồ Đề     nay là    một di tích chiến tranh,  được bảo vệ  chu đáo. Nhưng,đây còn  là  những chiến binh kiêu hãnh, ưỡn ngực  ra che chở cho    cư  dân phố thị, mang hình bóng hai  người bạn của Đường,  và  có thể   và cả  Đường,cả  người  chị  gái vốn là một cô giáo, dẫn em ra  đây gửi gắm, khi cô miễn cưỡng phải giã từ  ước mơ bảng đen phân trắng.

 Có dịp  Hiếu về một miền quê  ven Đồng Nai,nơi Đường vẫn ghé thăm anh con  trai ông Định, trạc tuổi Đường, một thời làm phó quận trưởng ở đây,  rồi ghé  thăm  khi Đài  đến đây làm cô  giáo trẻ, anh gặp   những  người  dân có hẳn một thôn,   đều là   những bàn chân từ    nơi có  ngôi nhà thờ   đổ, ngôi trường họ Bồ Đề  hoang tàn,   mà    tìm  vượt ngàn dặm, vào    tận sâu trong miền  đất đỏ  Nam  Bộ, hẳn có  người ra đi từ mái trường này,có một lần đi ngang và   lặng thầm  cầu  nguyện   trước cổng nhà thờ,họ thấy  an lòng.

Chốn quê nhà vẫn còn đó   bức tường gạch có  dấu thánh giá, những vuông cửa    nằm nguyên bên bức vách táp lô và  vô số những nẹp sắt   giữ cho  khung   của nhiều lớp  học còn mãi đến hôm  nay và ngày mai .     Ngày  Thương  Binh Liệt Sĩ   27.7.2024

   GIANG, BÉ VÀ  TRE 

 (   trích tiểu thuyết  Ven hồ )